Giờ Đang Nơi Đâu

Chương 94: Chương 94: Đêm (9)




Đứa bé nọ mặt mũi dơ dáy, hai mắt vô thần nhìn ra ngoài cửa xe. Trên người là áo vải rách rưới, những vết may thô sơ lộ cả đường khâu. Áo bông quá dài, dùng dây cỏ làm thắt lưng buộc ngang hông, bên dưới là chiếc quần cộc màu đỏ, đôi chân trần gầy guộc tím tái vì lạnh.

Benjamin liên tục ngoái đầu nhìn cậu bé, nhưng lần nào cũng bắt gặp vẻ mặt đờ đẫn kia, anh ta không khỏi thở dài.

Lúc nhận được điện báo từ đảo Penang, trên điện báo viết “cho thuyền Tenshinmaru chở ba mươi người rời khỏi cảng Trung Quốc”, gọi điện thoại xác nhận thì Tạ Trạch Ích nói: “Ba mươi người, không nhiều không ít.”

Người Trung và người Nhật ở trên thuyền rất dễ phân biệt. Quần áo trắng giản dị lịch sự là bác sĩ Nhật, còn người nào da mặt nứt nẻ, quần áo vừa bẩn vừa không đủ che thân thì ấy là người Trung. Tuy nay đã vào đầu xuân nhưng vẫn còn đó cái lạnh của mùa đông. Không biết có phải ba mươi người này là số cực ít may mắn sống sót trong rất nhiều người phải chiến đấu chống chọi với cái lạnh mùa đông ở Hạp Bắc không. Mà dù có sống sót qua kỳ đông thì đằng trước vẫn còn cửa ải khó khăn hơn, bị coi là “vượn Trung Quốc”, bị đưa tới hòn đảo phía Đông Nam.

Hội đồng khu tự quản thường nhận được báo cáo về nạn buôn người như thế. Nhưng vì ngày nào ở tô giới cũng có không ít dân tỵ nạn Trung Quốc đột nhiên mất tích nên cũng chẳng mấy ai thấy lạ lùng. Hơn nữa còn vì vụ án giữa người Nhật và người Trung nên hai bên dùng chung một tòa nhà. Theo như tin tức được gửi về từ các gián điệp ở nhiều nước thì nhiều người đã nghe được phong thanh nhiều ít về các thí nghiệm sinh học được thực hiện ở Nhật Bản. Và gần đây thì chúng dứt khoát mở rộng diện tích tô giới Nhật với danh nghĩa là thành lập nhà máy kéo sợi, trắng trợn chiếm dụng một bệnh viện cũ ở Thượng Hải, dùng làm “bệnh viện nhà máy kéo sợi”, còn đưa một nhóm bác sĩ từ trường đại học y dược Sendai đến. Mà thực chất bọn chúng đang ngấm ngầm làm gì, hội đồng khu ít nhiều cũng biết được một hai, nhưng đa số đều chọn mở một mắt nhắm một mắt.

Có điều Benjamin không biết vì sao hôm nay Tạ Trạch Ích lại chỉ điểm vụ lần này, mà dù là món tiền cược cho con thuyền châu Âu đang ở trên biển Đông thì anh ta cũng chỉ có thể vâng lệnh.

Không biết là do trên đảo Penang liên lạc quá nhanh hay đã gặp rắc rối chỗ nào, màtới lúc lên thuyền, đếm tới đếm lui lại phát hiện tổng cộng có ba mươi mốt người Trung Quốc áo quần tả tơi. Lính Nhật trên thuyền nói: “Đã nói rồi còn gì, một thuyền đổi một thuyền, ba mươi mốt với ba mươi có khác gì nhau?”

Anh ta kiên quyết đáp: “Cấp trên đã nói là ba mươi người, không thể nhiều hơn một. Phải để chúng tôi giữ lại một người.”

Người Nhật nói: “Lúc thỏa thuận với cấp trên của chúng tôi, cấp trên của các anh không có nói phải đếm theo số lượng đầu người. Châm chước không được à?”

Hai bên cãi cọ qua lại, cuối cùng lính Nhật tức tối mắng: “Đồ gã chó nô lệ của chủ nghĩa quan liêu!” Nói đoạn, hắn xách cổ một cậu bé gầy gò từ trong ba mươi mốt người Trung Quốc, vung tay ném thẳng xuống biển.

Cậu bé rơi vào dòng nước lạnh băng, ngoi lên vùng vẫy kêu cứu, bọt nước nổi sùng sục. Lính Nhật trên thuyền cười ầm, đồng thời nói với lính Anh đang lục soát rằng: “Ba mươi người rồi đấy, không dư một người, đã hài lòng chưa?”

Rồi con thuyền Nhật nghênh ngang rời đi. Chân vịt xoay nhanh nổi bọt nước trắng xóa, tới khi bọt sóng biến mất thì đứa trẻ cũng chìm dần.

Mấy người lính Anh lập tức phi thân xuống nước, tìm kiếm một lúc rồi vớt cậu bé lên. Lại cấp cứu ở ngay bến tàu, may mà mạng lớn nên giữ được hơi thở cuối cùng, có điều cơ thể đã đạt đến giới hạn rồi. Không rõ bẩm sinh ngốc nghếch hay là sợ đến mức choáng váng, cậu bé vừa run run vừa trả lời, cũng không biết là tiếng địa phương vùng nào mà ngay cả phiên dịch người Trung cũng không hiểu.

Mà đã không hiểu thì không làm ăn được gì. Không hỏi được nhà ở đâu, chẳng nhẽ đem về hội đồng khu nuôi? Trong số những người Trung ở Thượng Hải, lưu dân ăn mày là thành phần không hề ít. Trước đó anh ta từng nghe nói bệnh viện Nhật Bản nhờ người ra ngoài tìm người tàn phế, người điên, người già và trẻ nhỏ cô nhi trong số đám ăn mày đem về bệnh viện, những người Trung Quốc trên con thuyền Tenshimaru vừa rời đi kia cũng là như thế. Vậy có đến tám phần cha mẹ của đứa trẻ này là nông dân vùng khác đến Thượng Hải, không làm ăn được nên lưu lạc thành dân tỵ nạn hoặc ăn mày, thậm chí có thể đã bị chết cóng trong trời đông. Chuyện này ngày nào cũng xảy ra, chẳng có gì lạ.

Tìm một đống cỏ ấm áp, cho nó ít đồ ăn rồi ném nó xuống xe ư?

Benjamin ngoái đầu nhìn cu cậu, nó cũng đang nhìn anh, hai tay cầm chiếc bánh sừng bò anh cho, đưa lên miệng gặm nhấm. Benjamin bất giác mềm lòng, dưới chân tăng tốc, chở cậu ta về hội đồng khu.

Xe chạy vào hội đồng khu, từ xa đã thấy Sở Vọng mặc áo khoác đứng chờ ở cửa. Anh ta lái xe đến trước mặt cô, dừng xe lại rồi nói: “Cô Sở, lúc quá, đang cần cô giúp lắm đây!”

Cô hỏi: “Sao thế?”

Cửa xe sau bật mở, người phiên dịch xách cổ một đứa nhóc bẩn thỉu xuống, tay nó vẫn chặt chiếc bánh sừng bò đã ăn mất một phần ba.

Benjamin nói rõ: “Cô lại nghe xem nó nói gì đi, chúng tôi không hiểu gì cả.”

Cô ngồi xổm xuống: “Em tên gì?”

Cậu bé rụt người lại, thấp giọng nói một câu.

“Nói gì thế? Là tiếng Trung à?” Thấy cô cau mày, Benjamin vỗ gáy: “Không lẽ đã đem người Nhật về rồi sao?”

Sở Vọng cười nói: “Là tiếng địa phương Trung Quốc, có điều tôi cũng không hiểu. Thành phố phía nam Trung Quốc, có cách mấy trăm cây số thì khẩu âm cũng không như vậy.”

Benjamin thở dài: “Thế làm sao bây giờ?”

Sở Vọng nhìn gương mặt nhỏ nhắn trước mặt một hồi, “Tắm rửa sạch sẽ, chụp ảnh rồi đăng báo tìm người?”

“Chuyện này…” Benjamin ngạc nhiên, “Không đến nỗi rầm rộ vậy chứ?”

Cô nghĩ một hồi thì mới hiểu ra. Ý của Benjamin là: ở tầng thấp nhất trong số những công dân hạng hai thì mạng sống là thứ rẻ mạt, không đáng phải bỏ tiền chụp ảnh đăng báo tìm người thân.

Dù như Benjamin cũng có suy nghĩ cố hữu coi người trung Quốc là công dân hạ đẳng, thì những người Anh khác còn hơn cả thế. Anh ta nói câu này rất tự nhiên, như thể không cảm thấy có gì sai, trái lại còn cho rằng cô chuyện bé xé ra to.

Cô không trả lời, hai tay luồn qua nách cậu bé, kéo đến bên cạnh ống nước ở hội đồng khu, mở vòi, lấy khăn ra thấm ướt rồi chậm rãi lau mặt cho cậu.

Benjamin thở dài, sau một hồi đấu tranh tâm lý thì mới xắn tay áo lên đi đến giúp.

Trong lúc lau mặt, Sở Vọng cũng thử hỏi vài vấn đề khác, ví dụ như nhà ở đâu, đã mấy tuổi rồi, thậm chí cả những câu kiểu như “thích ăn gì”, tính dựa vào khẩu vị để phân biệt vùng miền. Nhưng hỏi mãi mà cô vẫn không hiểu cậu bé nói gì, song có thể cảm giác được là phương ngữ nông thôn ở miền Nam Trung Quốc.

Lau một hồi, cô chợt thấy trên cổ cậu đeo sợi chỉ đen. Tưởng là tín vật cha mẹ cậu để lại, kiểu ngọc thạch, đá, hạch đào hoặc đồ trang sức gì đó. Cô tính lấy ra nhìn, xem có thể có manh mối gì không.

Rút vật ở cuối sợi dây ra khỏi quần áo, hóa ra đó là một tấm sắt nhỏ có chiều rộng bằng ngón tay cái. Mặt trước được viết bằng tiếng Nhật, cô đọc cũng không hiểu. Lật tấm sắt lại, bên trên viết một từ tiếng Anh: Ape (Vượn).

Cô ngẩn người, bất chợt đẩy tay áo cậu bé lên để lộ khuỷu tay.

Có những vết sẹo do kim tiêm lưu lại phía trong khuỷu tay bẩn thỉu.

Cô lập tức buông tay ra như bị điện giật, nhét lại tấm sắt vào trong áo đứa con nít, đồng thời cũng kéo tay áo xuống, quay đầu đi thở dốc.

Benjamin hỏi: “Sao vậy?”

Cô khẽ thở hắt một hơi, quay lại cười nói: “Tôi biết làm gì rồi. Cứ giao cậu bé cho tôi trước, được không?”

Bạn có thể dùng phím mũi tên hoặc WASD để lùi/sang chương.