[Hi Nháo Hệ Liệt] – Hữu Châu Hà

Chương 79: Chương 79: Tuyệt Bất Phóng Thủ (Quyết Không Buông Tay)




CHƯƠNG 78: TUYỆT BẤT PHÓNG THỦ (QUYẾT KHÔNG BUÔNG TAY)

Trở lại Vô Hồi cung, Mạc Cư thực sự phái người canh giữ bốn phía quanh phòng Đoan Mộc Hồi Xuân.

Đoan Mộc Hồi Xuân vốn không định hưng sư động chúng (kinh động nhiều người) đến vậy, nhưng lại không nỡ chối từ hảo ý, đành xem bọn họ như mấy cột cờ cắm quanh song cửa, hắc vào hàng loạt những cái bóng mờ mờ.

Cứ tưởng lao tâm khổ lực hàng tháng trời, vất vả lắm mới quay về được khung cảnh quen thuộc, hắn sẽ quẳng hết gánh nặng trong lòng, mỹ mãn mà ngủ một giấc, nhưng nằm trằn trọc suốt hai canh giờ trên giường, mắt mở trừng trừng nhìn một loạt bóng người hòa cùng sắc trời lẫn dần vào bóng tối, Đoan Mộc Hồi Xuân phải thừa nhận, cho dù giường chiếu bén hơi quen thuộc, hắn vẫn mất ngủ.

Đêm trường tĩnh lặng.

Một vầng trăng thanh treo giữa không trung, ánh trăng trong suốt nhấn chìm muôn vì sao mờ nhạt.

Đoan Mộc Hồi Xuân đứng ven hành lang vách núi nhô khỏi Vô Hồi cung.

Trăng ở đây dường như có hình dạng không giống với trăng trên Tuyệt Ảnh phong.

Trăng của Tuyệt Ảnh phong to mà sáng, cơ hồ có thể với tới được. Trăng ở Vô Hồi cung trong mà huyền hoặc, vĩnh viễn giữ một khoảng cách ngắm được nhưng không thể đến gần.

Đằng sau vang lên tiếng bước chân quen thuộc, liền theo sau là tiếng tiêu.

Đêm hàn, trăng lạnh, tiếng tiêu càng thê lương.

Nhạc khúc trầm đọng mà khoan thai như một chiếc móc bằng sương, nhẹ nhàng khơi những tâm tư sâu tận đáy lòng thâm u tăm tối..

Từng cơn từng cơn gió nhẹ nhàng đến, rồi lại nhẹ nhàng rời đi.

Tiếng nhạc theo gió tới những phương trời càng trống trải càng xa xăm.

Kết một khúc.

Gió chưa ngừng.

Phùng Cổ Đạo bảo: “Những lúc tâm trạng không tốt, ta sẽ thổi khúc nhạc này.”

Đoan Mộc Hồi Xuân hoàn hồn hỏi: “Nghe rất hay, không biết là khúc gì?”

Phùng Cổ Đạo nói: “Đây là khúc nhạc năm mười ba tuổi sau khi học thổi tiêu xong, ta đã tự sáng tác, vô danh.”

Đoan Mộc Hồi Xuân quay đầu nhìn y, mỉm cười bảo: “Nếu hữu ý, sao lại vô danh được?”

Phùng Cổ Đao cười nói: “Không sai. Nếu hữu ý, toàn bộ danh lợi trên thế gian đều chỉ là phù vân trần thổ (bụi trần).”

Đoan Mộc Hồi Xuân nghe được trong giọng cười của y có điều cổ quái, cũng không tiếp lời.

Phùng Cổ Đạo hỏi: “Ngươi muốn trùng kiến Tê Hà sơn trang chứ?”

Đoan Mộc Hồi Xuân lòng kinh động, hỏi: “Cớ sao lại hỏi thế?”

Phùng Cổ Đạo nói: “Tổ truyền gia nghiệp, lẽ nào ngươi không vương vấn?”

Đoan Mộc Hồi Xuân trầm mặc một hồi lâu, mới bảo: “Vẫn chưa từng quên. Nhưng trùng kiến Tê Hà sơn trang thì đã sao, có trùng kiến được sơn trang cũng không trùng kiến được người ở sơn trang, càng không trùng kiến được thời thế của sơn trang.”

Phùng Cổ Đạo nói: “Có thể, chờ ngươi trùng kiến sơn trang xong, con người và thời thế sẽ chậm rãi tìm về.”

Đoan Mộc Hồi Xuân xoay lại hẳn, yên lặng nhìn y môt lúc, nhíu mày nói: “Minh tôn là muốn ta rời khỏi Ma giáo?”

Phùng Cổ Đạo nói: “Dĩ nhiên không phải, ta chỉ không muốn ngươi suốt ngày ủ ê phiền muộn, huống hồ, cho dù ngươi có phục kiến Tê Hà sơn trang, thì ngươi vẫn là trưởng lão Ma giáo ta.”

Đoan Mộc Hồi Xuân hạ mắt, một hồi mới thở dài: “Trong lòng ta từ lâu chỉ biết một sơn trang.”

Phùng Cổ Đạo nói: “Nga? Nói vậy, khiến ngươi trăm mối ưu tư cũng không phải là Tê Hà sơn trang?”

Đoan Mộc Hồi Xuân tương giao với Phùng Cổ Đạo đã lâu, biết y vòng vo tam quốc chẳng qua chỉ để khơi mào, liền giành lời nói lảng đi: “Dù Thánh Nguyệt giáo đã rút khỏi Trung Nguyên, nhưng những tổn thất gây nên nhất thời khó khôi phục. Ma giáo kinh qua một trận, đại thương nguyên khí, phải tu sinh dưỡng khí một thời gian, ta chỉ sợ bạch đạo thừa nước đục thả câu.”

Phùng Cổ Đạo nói: “Chuyện ấy không thể không lo. Tiếc là Kỷ môn chủ, Viên Ngạo Sách lẫn Huy Hoàng môn lại cùng nhau đến Đột Quyết, bằng không có bọn họ trấn giữ, bạch đạo cũng chẳng khơi nổi sóng gió gì.”

Đoan Mộc Hồi Xuân vốn chỉ thuận miệng nói, nghe Phùng Cổ Đạo tiếp lời như thế, đảo lại đâm ra lo lắng thật, “Chẳng phải vẫn còn Lăng Vân đạo trưởng trấn giữ Vũ Đương sao?” Việc Lăng Vân đạo trưởng là trưởng lão Ma giáo ban đầu khiến hắn cực kinh hãi, về sau ngẫm lại, lúc đó hắn đã cảm thấy Lăng Vân đạo trưởng luôn chiếu cố Kỷ Vô Địch một cách hoang đường, cứ ngỡ y là gian tế của Lam Diễm Minh, hiện mới ngộ ra, âu cũng là nể mặt Viên Ngạo Sách. Hơn nữa sau khi gia nhập Ma giáo, có được một trưởng lão Ma giáo là chưởng môn Vũ Đương, Đoan Mộc Hồi Xuân phải thầm lấy làm may mắn.

Phùng Cổ Đạo nói: “Lăng Vân đạo trưởng tuổi tác đã cao, những năm gần đây đại đệ tử trẻ tuổi của Vũ Đương đang phiêu bạt giang hồ, chỉ sợ quá vài năm nữa, sẽ đến lúc sóng sau đè sóng trước. Vả lại nhiều năm nay, Lăng Vân đạo trưởng cũng ngày một ít tiếp xúc với giáo vụ.”

Đoan Mộc Hồi Xuân nói: “Phiền Tế Cảnh của Cửu Hoa phái cũng có chút giao tình với chúng ta.”

Phùng Cổ Đạo nói: “Dã tâm của Phiền Tế Cảnh không thể xem nhẹ, tâm cơ lại thâm hiểm khó lường. Là địch hay bạn, cũng phải thủ một phần mới được.”

Đoan Mộc Hồi Xuân nhớ tới biểu hiện của Phiền Tế Cảnh lúc trước, rồi đến biểu hiện của hắn sau này, ngực thầm toát mồ hôi lạnh. “Vậy còn Thanh Thành? Trình Trừng Thành cũng là bạn cũ của ta, ngộ nhỡ bất trắc, y cũng có thể trợ giúp đôi ba phần.”

Phùng Cổ Đạo nói: “Trình Trừng Thành tuy là đại đệ tử đứng đầu chức chưởng môn phái Thanh Thành, nhưng phái Thanh Thành lại không có tiếng nói lớn. Con người Trình Trừng Thành thì không quyết đoán bằng Phiền Tế Cảnh, tâm cơ thua ỷ Vô Địch, võ công dưới Lục Thanh Y. Mặc dù trường tụ thiện vũ *, chung quy cũng không phải là đại biểu đứng đầu quần hùng.”

*kẻ có tiền tài quyền nên thế giỏi mánh khóe giao thiệp

Đoan Mộc Hồi Xuân gật gù ngẫm nghĩ một lúc, bảo: “Nói vậy, toàn thể bạch đạo còn gì đáng ngại chứ?” Dưới cái nhìn của hắn, nhóm người Phiền Tế Cảnh, Trình Trừng Thành đã là những nhân vật xuất chúng trong bạch đạo võ lâm, trừ bọn họ ra, trong đám bạch đạo chẳng có kẻ nào đáng gờm nữa.

Phùng Cổ Đạo lấy làm giật mình, không ngờ Đoan Mộc Hồi Xuân cư nhiên lại nghĩ ngược lại, bất quá xưa nay y sở trường hùng biện, nhanh chóng tiếp lời: “Bầy kiến họp lại còn rung được cây to, nếu toàn bộ người trong bạch đạo đồng tâm hiệp lực kết thành một mối, thì cũng khiến kẻ khác phải đề phòng. Việc bọn họ luận võ ngoài thành Khai Phong để đề cử võ lâm Minh chủ ngày trước chính là vết xe đổ.”

Đoan Mộc Hồi Xuân nói: “Minh tôn sống an bình biết liệu trước gian nguy, quả là mưu tính sâu xa.”

Phùng Cổ Đạo thở dài bảo: “Ta chẳng qua chỉ thuận miệng nói thôi. Thế sự nào có mấy khi toại nhân ý?”

Đoan Mộc Hồi Xuân gật đầu tán thành.

“Bất quá”, Phùng Cổ Đạo lập tức đổi đề tài, “Chính vì thế gian có lắm chuyện không được như ý, chúng ta mới càng phải dốc hết sức mình để đạt thành tâm nguyện.”

Đoan Mộc Hồi Xuân ngẩn ra.

Phùng Cổ Đạo nhẹ giọng nói: “Thuở ấy lỡ phụ Linh Bích, lòng luôn thấy ăn năn, cho dù hiện tại có đoàn viên, nhưng lấy những tổn thương in hằn trong lòng hắn, ta hối tiếc chung thân.”

Phùng Cổ Đạo nói dừng chân ba ngày, tất chỉ dừng đúng ba ngày rồi vội vã hạ sơn thật.

Trước khi đi, y lẳng lặng gọi Cổ Tường sang một bên, căn dặn thế này thế nọ một phen.

Cổ Tường khó hiểu hỏi: “Tại sao phải cho qua một người đơn thân độc mã lên núi? Chẳng lẽ Minh tôn biết có người muốn đến Bễ Nghễ sơn gây sự?”

Phùng Cổ Đạo điềm nhiên cười nói: “Ta bất quá chỉ đoán thôi, nếu có, ngươi cứ thả cho qua. Nếu không có, ngươi xem như chưa hề có việc này, về sau cũng đừng nhắc tới.”

Cổ Tường xưa nay chỉ biết phụng mệnh Phùng Cổ Đạo, tuy bụng đầy nghi hoặc, nhưng vẫn đáp ứng theo.

Tiễn Phùng Cổ Đạo hạ sơn xong, hắn liền đích thân đi tuần tra.

Nhờ trời phù hộ, hắn ngày đêm chú tâm như thế, đổi lại những việc hắn phát hiện hết thảy đều phi phàm.

Phòng ngự của Bễ Nghễ sơn xưa nay đều do hắn trấn giữ, giáo chúng từ trạm gác chính đến trạm gác ngầm hắn nhất mực nhận biết. Nên đến một ngày, hắn phát hiện được một bóng lưng xa lạ. Mặc dù vận y phục đồng dạng, nhưng khí thế trên người thì chẳng lừa được ai.

Cổ Tường thấy y bước tới, liền biết ngay đó là một tuyệt đỉnh cao thủ. Người nọ phải chăng chính là kẻ đơn thân độc mã lên núi mà Minh tôn nhắc đến? Có điều, hắn cũng không rõ bối cảnh thân thế của đối phương, lại cũng không biết mục đích chuyến này của y, nếu lỡ tùy tiện cho qua, vạn nhất gặp thích khách hay mật thám, chẳng phải sẽ chuốc lấy đại họa sao?

Hắn đắn đo trong bụng. Cả Minh tôn lẫn Ám tôn đều không ở trên núi, chỉ để lại ba trưởng lão, nghĩ tới nghĩ lui, hắn đành tìm Đoan Mộc Hồi Xuân thương nghị thương nghị thêm. Dù gì Minh tôn đã nói, nếu không có, cứ coi như chưa có việc ấy, nhưng hiện tại rõ ràng đã có rồi, nghiễm nhiên hắn phải xử lý theo kiểu có việc ấy.

Hắn phái người đi mời Đoan Mộc Hồi Xuân, mặt khác làm như không hay biết, đem người đến trạm gác ngầm gần chỗ người nọ ngồi, rồi tán chuyện ngày thường với tốp gác chính.

Một lúc sau, đoán chừng bấy giờ có lẽ Đoan Mộc Hồi Xuân cũng sắp tới rồi, hắn mới khoan thai mà đứng dậy, trở về lối cũ nghênh tiếp.

Đoan Mộc Hồi Xuân hay tin có việc cấp bách, cứ tưởng suy đoán của Phùng Cổ Đạo trước đó đã thành sự thật, hớt ha hớt hải phi xuống. Hắn dụng khinh công xuống một mạch, so với dự tính của Cổ Tường còn sớm hơn chút đỉnh, vì vậy chưa kịp đợi Cổ Tường rời khỏi phạm vi trạm gác kia, Đoan Mộc Hồi Xuân đã lao tới hỏi: “Phát sinh chuyện gì?”

Cổ Tường đang định kéo hắn qua một bên nói, bỗng nghe phía sau có trận gió lướt qua. Hắn trở tay tung chưởng, lại bị đánh bật ra nhẹ nhàng. Tức thì trông thấy bóng lưng xa lạ kia đang sít sao ôm lấy Đoan Mộc Hồi Xuân, miệng phát tiếng thì thầm mãn nguyện: “Thân thân, người ta nhớ ngươi muốn chết.”

“Đây là…” Cổ Tường mù tịt.

Chú thích

*Thành ngữ “Trường tụ thiện vũ”: Tay áo của y phục càng dài, lúc khiêu vũ càng dễ nhảy đẹp. Nguyên chỉ có chỗ để dựa vào, sự tình dễ được thành công. Từ đó hình dung kẻ có tài có thế có thủ đoạn, giỏi dựa dẫm, biết đi cửa sau.

Bạn có thể dùng phím mũi tên hoặc WASD để lùi/sang chương.