Hữu Phong Minh Lang Quyển 1 Phong Khởi Vân Dũng

Chương 3: Chương 3: T Ầ N T H Ư Ơ N G




CHƯƠNG 2: T Ầ N T H Ư Ơ N G

Tuy nói đã sắp sửa sang cái tiết ba tháng xuân phong, nhưng Lợi Châu vốn khí hậu rất ấm áp vẫn tự dưng có một trận tuyết nhỏ rơi lất phất. Khí trời dù rét buốt, nhưng sau giờ Ngọ, ông chủ Vương vẫn án theo nếp cũ mà dựng một cái lều vải bố bên đường cái, bắt đầu dọn hàng đậu hũ hoa. Gió rét từng đợt từng đợt nhẹ luồn vào bên trong tấm áo bông mà lão đã mặc suốt nhiều năm, làm lão run lập cập. Vừa ngước đầu lên đã thấy bên mép chiếc bàn con có hai người thanh niên mặc áo ngoài bằng vải đay màu vàng nhạt, một cao một thấp, người cao thì gầy nhom, thấp thì ục ịch. Ông chủ Vương nhìn thoáng qua đã biết là đệ tử Nho giáo. Với lại, nhìn hai thanh trường kiếm đặt trên bàn thì liền biết rằng bọn họ còn thuộc về Võ đường trong giáo.

“Hai vị đại ca này muốn ăn đậu hũ hoa phỏng?” Ông chủ Vương nở nụ cười mà hỏi.

“Cho hai bát đậu hũ hoa, một bát bỏ ớt cay vào, một bát không bỏ, mặt khác gói thêm cho bọn ta một bao đậu hũ khô.” Người béo tròn dáng đậm người trong hai thanh niên gọi.

Không đợi ông chủ Vương vâng dạ trả lời, đã có ai đó chen mồm vào nói: “Ông chủ Vương, cho tôi một bát cái đã, tôi ăn cho chóng đặng còn đi đưa hương.”

Ông chủ Vương ngước lên thì thấy đó ông khách quen lão Bát, người thồ hương đi giao hàng của hiệu làm hương Tam Nguyên. Trên lưng hắn gùi một cái bao vải lớn, phần hương gù ra nơi trên cùng sệ xuống hết hai vai, cái cằm nhọn thì hất nhẹ về bên này như muốn rẽ vào. Ông chủ Vương thấy buồn cười trong bụng, biết tỏng hắn có phải vội đi giao hương gì đâu. Lão Bát cố tình gây phiền bức với người của Nho giáo mà thôi. Giáo lý của Nho giáo dù khiến người ta thấy chướng mắt, nhưng giáo quy lại vô cùng nghiêm ngặt, đệ tử trong giáo không phải muốn động thủ với ai là động thủ. Bởi vậy ông chủ Vương cũng kéo tình dài giọng mà nói: “Như vậy không biết hai vị đại ca có đồng ý không đây?”

Gã thanh niên béo lùn chỉ cau mày không đáp, người cao kều bên cạnh đành tiếp lời: “Vị đại ca này đang vội, bán cho hắn trước đi, chúng ta không gấp gáp gì.”

Lão Bát hừ mũi, cũng không buồn cảm ơn lấy một tiếng, ngồi xuống một cái bàn nhỏ rồi dỡ cái gùi vải trên vai ra, bắt đầu quay sang tán gẫu với ông chủ Vương: “Ông chủ Vương có biết chưa vậy, trên con lộ phía Tây có ông tướng quân Trát Mộc Hợp của Mông Cổ bị người ta giết chết.” Hắn hạ giọng, vẻ mặt rất hưng phấn: “Nói là do võ lâm nhân sĩ chúng ta ám sát.”

“Lão Bát, thật đấy à?” Ông chủ Vương thất kinh hỏi lại: “Là vị tướng quân Mông Cổ mấy lần dẫn binh đánh Thành Đô à? Chuyện xảy ra bao giờ? Nghe bảo ông này ở Thành Đô nhiều năm, địa hình chỗ này thành thục lắm.”

“Là chính ông ta, hai ngày trước.” Lão Bát đắc ý mà cười: “Hiệu làm hương chúng tôi giao hai bó hương lớn tới đại doanh Mông Cổ, nghe nói là để cho bọn người Hán làm lễ truy điệu.” Hắn nói xong rồi thì khinh khỉnh nhổ toẹt một bãi về phía hai thanh niên. Ông chủ Vương nghe xong thì kích động đến mức đậu hũ trong muôi cũng bị văng mấy đốm ra ngoài, miệng thì thào nói: “Chết hay lắm, chết hay lắm.”



Lão Bát đón lấy bát đậu hũ, cố ý cao giọng mà nói: “Người như vậy mới gọi là hiệp khách, xứng đáng luyện võ.”

Ông chủ Vương thấy hắn thẳng toẹt như vậy thì có chút lo sợ sẽ gây ra chuyện phiền phức. Nhưng thấy hai thanh niên bàn kia dường như không hề nghe thấy, mặt mũi vẫn bình thản ngồi yên tại chỗ thì ***g ngực thở phào một hơi. Một hồi sau, ai nấy đều đang ăn đậu hũ hoa, trong một lúc không nói năng gì. Có điều không được bao lâu sau, từ đằng trước đã truyền đến tiếng ồn huyên náo. Mấy tên lính lác Mông Cổ tay lăm lăm binh khí đang lấy chân đá ông chủ bến đò ngã lăn quay ra đất. Lão Bát nổi giận, hung hăng buông bát, chửi ầm: “Cái lũ cường đạo kia!” Ông chủ Vương sợ đến nỗi mặt mày trắng nhợt, nhỏ giọng nói: “Lão Bát à, hôm nay ông ăn đậu hũ bao nhiêu tôi tặng hết, ngàn vạn lần đừng phiền hà tới tôi đi, một nhà già trẻ của tôi chỉ trông vào gian hàng này mà sống đó.”

Lão Bát căm hận quay đầu lại, thoáng cái thấy hai người thuộc Võ đường Nho giáo vẫn điềm nhiên ăn đậu hũ như không có việc gì, cơn uất ức trong lòng hắn có vuốt ra sao cũng không trôi được xuống bụng. Chờ đến lúc bọn người Mông Cổ đi ngang qua trước mặt, hắn bĩu môi định nhổ một ngụm đàm, nhưng đã trào ra tới mép thì không dám nữa, đành quay đầu lại nhổ toẹt vào dưới chân hai thanh niên.

Gã béo tròn giận tím tái vừa định đứng phắt dậy đã bị người cao kều bên cạnh kéo xuống. Hai người vứt lại mấy đồng xu liền vội vã rời đi. Ông chủ Vương thở dài: “Lão Bát à, ông cũng hơi quá rồi.” Đương nói, phía trước mặt có một chiếc xe ngựa mui đen tuyền hối hả rảo qua, phía trước cỗ xe, một tấm biển viết chữ “Nhạc” treo lúc la lúc lắc.

Lão Bát vỗ bàn, chỉ vào chiếc xe mà chửi mắng: “Ông xem cái bọn Nho giáo này còn nam nhân à, đám luyện võ thì như quân rùa đen rụt cổ, bọn đánh đàn thì sắp sửa đi làm trò đĩ *** mua vui hết rồi. Con mẹ nó bọn rùa con này còn để mặt mũi lão tử bọn ta vào đâu hả?”

Lần này thì cả lão Vương cũng không còn gì để nói, chỉ nhìn cỗ xe ngựa kia mà khẽ thở thật dài. Mắt thấy xe đi qua rồi, mới thu ánh mắt lại với đôi phần thất vọng.



Lão Bát cũng quăng một đồng xu ở lại rồi thở phì phò đi mất. Sau khi đi giao hết mấy bó hương rồi thì cơn tức tối vẫn còn nuốt chưa trôi, vậy là đứng ngay trước cửa Triêu Dương Cung của Mông Kha mà nhổ mấy bãi nước bọt. Triêu Dương Cung này vốn được xây dựng vào thời Đường, do quan phủ tại địa phương dựng nên dành cho Võ Tắc Thiên sử dụng khi đến thăm viếng, hiện tại vừa hay trở thành biệt cung của Mông Kha.

Lão Bát phun liên tục mấy bãi xong, nhất thời còn đang bừng bừng nóng nảy, không hề nghe thấy tiếng vó ngựa đã ở phía sau. Đến khi bất giác giật mình ngoái lại mới hay có một tên kỵ binh Mông Cổ đã ở sát sau người. Mắt thấy nhưng tránh thì không kịp, khiến Lão Bát sợ hết hồn vía, bất giác tay chân bủn rủn, mắt hoa lên phải lùi về một bên. Trong lúc tâm thần hoảng hốt, Lão Bát chỉ nhìn thấy một thiếu niên mặc ngoại y vải sam màu vàng nhạt lướt ngang người mình. Đến khi lão Bát tỉnh táo lại một chút thì đã chỉ còn có thể nhìn thấy bóng lưng gầy gò của thiếu niên, hẳn nhiên là một đệ tử Nho giáo, trong lòng còn ôm một chiếc đàn tranh hay đàn cầm gì đó. Hướng y đi đến cũng là Triêu Dương Cung. Lão Bát há hốc mồm, nhìn niên thiếu ấy trầm ổn bước từng bước một vào bên trong..

Tại Triêu Dương Cung, Mông Kha đang cử hành yến tiệc mừng công cho Hốt Tất Liệt, ăn uống kéo dài từ buổi trưa cho đến lúc xế chiều. Đám quân tướng Mông Cổ trong sảnh lớn đại đa số đã say sưa bí tỉ. Ca vũ xong xuôi, Mông Kha ngồi ở phía trên cười nói: “Các vị tướng quân nhớ chừa một chút tỉnh táo, một lát nữa chúng ta vẫn còn có tiết mục hay nhất để xem.”

Ông ta nói xong thì hướng mắt nhìn về phía bên ngoài cửa cung, bên ngoài thấp thoáng thân ảnh nhòa nhạt của một thiếu niên. Mông Kha cười nói người đã tới rồi.

Thụy tuyết lã chã rơi ngoài cửa, cảnh trí của buổi dần dà đổ muộn tuyệt đẹp đến nao lòng. Tuyết càng lúc càng tích dày. Ào ã tùng phong thổi đám tuyết đọng trên những ngọn cây cao vút rơi xuống miên man không dứt, cảnh trí bốn bề sắc lạnh và u lệ. Bước chân người thiếu niên đạp lên nền tuyết phủ, một bước rồi lại một bước, không chậm không nhanh, nom như không màng đến bất cứ gì, ấy vậy mà trong nháy mắt đã đến gần. Y ôm trong tay một chiếc cổ tranh bằng gỗ tử đàn, tuy hơn nửa khuôn mặt đã bị đàn tranh che khuất, nhưng vẫn có thể thấy được những đường nét thanh tú, dáng dấp đó hồ như có thể nói rằng tuổi tác còn chưa quá mười sáu mười bảy, mặc một lớp ngoại y bằng vải đay màu vàng ngà, mái tóc đen nhánh tùy tiện tết lại bằng một chiếc khăn cũng màu đen, là một thiếu niên thanh sạch và nhẹ nhõm đến vô cùng.

Nhất cử nhất động của y đều tuyệt đối giản đơn, ấy vậy nhưng có thể khiến cho bọn người trong sảnh bất tri bất giác im lặng như tờ để dõi nhìn. Thiếu niên đi vào trong sảnh, hơi cúi thấp người dùng giọng nói trong vắt mà thưa: “Nho Giáo Phương Đình Quân tham kiến Khả hãn.”

Mông Kha buông bình rượu trong tay xuống rồi nói: “Ngươi chính là quan môn đệ tử của thiên hạ đệ nhất nhạc công Sương Diệp Hồng, Phương Đình Quân?”

Thiếu niên mỉm cười xác nhận.

Mông Kha phất tay, cho ban tọa, sau đó nhìn sang chúng đại thần, mặt vẫn tươi cười giới thiệu: “Đây chính là đệ tử đắc ý nhất của đệ nhất nhạc công người Hán, nghe nói cầm kỹ của y khả dĩ khiến cho phi điểu phải ngừng bay, liệt mã phải rơi lệ, chúng ta hôm nay không ngại gì thưởng thức một lần.”

Thiếu niên vẫn cúi thấp người, trên mặt mỉm một nụ cười, đáp lại Mông Kha một câu quá khen rồi, liền ngồi xuống đặt đàn tranh trong tay lên án kỷ, hay tay vươn ra điều chỉnh lại dây đàn một chút. Y đặt tay lên các dây đàn, bọn đại tướng đang ngồi đằng kia không cầm được nhịp tim giã liên hồi. Chưa bao giờ chúng thấy qua một đôi tay đẹp đến như vậy, mười ngón mảnh khảnh, gần như không thấy bất cứ khớp xương nào nhô ra ngoài, màu da trắng ngần, móng tay được cắt tỉa thật gọn gàng, ánh một sắc hồng hào sáng bóng, đầu ngón tay êm mềm lại không hề nhọn giống đầu ngón của nữ nhân, nhưng lại có một vẻ đẹp vuông vức đầy đặn thật lạ lùng. Trên cổ tay trái của y đang thắt một chiếc khăn sa màu lam nhạt, khi phối cùng đôi bàn tay ấy, hầu như có thể tước đi hồn phách của tất cả những ai đang ngồi ở nơi này. Đến khi những ngón tay đó nhẹ rung mấy âm, làn điệu chưa thấy đâu nhưng dư âm đã ngân nga lan tỏa.

Thiếu niên thử âm xong, liền tiếp nối với một khúc đàn cổ khoáng đạt “Dương xuân” “Bạch tuyết”. Tiếng đàn phong nhã, thật thích hợp để diễn tấu trước mặt bọn quý tộc vương tôn. Chỉ là cảnh tượng ngoài cửa một miền trắng xóa tuyết rơi, bên trong ở bốn góc phòng đều cho đặt những chiếc lò than lửa cháy đượm hồng, làm tôn lên tiếng đàn ưu nhã cùng một thiếu niên tuấn tú, liên lụy đám hán tử man rợ lỗ mãng nơi tái ngoại kia tam hồn đã mất đi lục phách. Đến khi người thiếu niên lại đàn thêm một khúc “Xuất thủy liên”, tiếng đàn dịu dàng, ngón tay uyển chuyển lưu loát rung những phím trên nhạc sơn cùng nhạn túc, phối với dung mạo an tường khi mỉm cười của thiếu niên, càng khiến cho ngay cả đệ nhất đại tướng Mông Cổ Đông Vương Nãi Nhan cũng phải thất thần, chén rượu trong tay buông lơi xuống đất!

Tiếng xoảng vang ra khi vỡ trên nền cẩm thạch. Trong sảnh lớn, tất thảy đều đang trầm túy trong tiếng đàn của thiếu niên, bất chợt khi âm hưởng rút cả đi bèn giật mình hốt hoảng. Niên thiếu im lìm bất động, cũng không đàn thêm một khúc nào nữa, chỉ nhìn bao quát tất cả với vẻ mặt hàm tiếu.

“Ra khỏi bùn lầy không lấm bùn, trầm trong sóng nước mà không chao” Một nam tử mặc áo lam ngồi phía bên trái Mông Kha mở miệng cười: “Không sai, từ khúc này rất thích hợp cho Phương công tử diễn tấu.” Nam tử này sắc mặt trắng hồng, mắt phượng dài hẹp, đôi ngươi đen thẳm, nhìn không giống người Mông Cổ, mà lại giống như một gã con cháu nhà sang quý nào đó ở Giang Nam. “Nhạc kỹ có thể đàn ra những từ khúc thanh nhã như vậy quả thực không tệ.”

Phương Đình Quân mỉm cười, biết vị công tử Mông Cổ này là vì để cho toàn bộ mọi người ở đây không bị mất hết thể diện nên mới nói như vậy, trong lòng y tự hiểu rằng khi y dừng không đàn nữa e rằng chỉ là vì muốn xem thử trò cười của bọn chúng mà thôi. Nãi Nhan mặt đỏ bừng bừng tới tận mang tai, gã ta luôn tự cho mình chiến công hiển hách, ngoại trừ Mông Kha ra thì không đặt bất kỳ ai vào mắt. Vậy mà hôm nay lại ở trước mặt đông người làm trò cười cho bàn dân thiên hạ, không khỏi nhếch cái môi dày lên gầm gừ: “Trách làm sao bọn Hán nhân không vong quốc, thứ yêu dị này cũng có thể đem ra, tấu âm điệu của đồ mất nước, Đại hãn không nghe cũng được.”

Nam tử áo lam không khỏi cau mày một chút, thấy được trong mắt thiếu niên tiếu ý càng sâu hơn, trong lòng tự nhủ đây mới gọi là làm trò cười cho thiên hạ. Mông Kha cũng cười nói: “Không sao, hai ngày trước Hốt Tất Liệt an tháp có nói với ta, trong Hán nhân có một người sau khi vong quốc thì chủ tác ra một bài thơ, trong bài có một câu kêu là “Thương nữ bất tri vong quốc hận, cách giang do xướng Hậu Đình Hoa”. Ngẫm có lẽ cũng đồng dạng cảnh tượng như thế này, chúng ta mở mang tầm mắt cũng tốt. Nếu tất cả bọn nam nhân người Hán đều chỉ biết đánh đàn ngâm thơ, chúng ta cũng khả dĩ ít hy sinh tướng sĩ đi nhiều.” Ông ta quay sang hỏi nam tử áo lam, cười nói: “Hai câu thơ đó ta đọc có đúng không?”

Hốt Tất Liệt quay sang cười với Mông Kha: “Đại ca trí nhớ thật tốt.” Rồi hắn đảo mắt trông qua thiếu niên, thấy mi mắt của y nhẹ rũ, không còn có thể nhìn thấy được thần sắc trong con ngươi, nhưng nụ cười trên khuôn mặt vẫn không chút đổi thay.



Phương Đình Quân hãy còn đặt tay trên đàn tranh, mấy âm trôi đi, cả sảnh lớn lập tức im phăng phắc. Nhưng tiếng đàn lần này lại có vẻ như không hề giống với vừa rồi. Vài tiếng ngân qua đi, tức khắc giai điệu vần chuyển, âm thanh mãnh liệt tuôn trào, trong nháy mắt trong tiếng đàn tựa hồ như rền vang tiếng trống dồn dập, kim loại chém vào nhau chát chúa, âm điệu của giương cung bạt kiếm, chiến mã hí lộng vang trời. Nghe như có hai đạo quân đang đổ ập vào nhau, trong nháy mắt nơi nơi đều đã nổ ra một hồi sát phạt, âm điệu vút cao như thể lướt bay trên cuộc vây khốn bốn bề. Người ngồi trong sảnh vốn đều là chiến tướng từng trải qua cửu tử nhất sinh, bị tiếng đàn kia lôi kéo, hồn phách của mỗi người đều như bị lôi tuột về quãng thời gian khốn khó bậc nhất giữa chiến trường. Sắc mặt tất cả nhợt nhạt, ngay cả Mông Kha cũng không loại lệ.

Hốt Tất Liệt nhíu mày, chỉ thấy thần sắc đám tướng sĩ ngồi kín trong sảnh đều là đang lâm vào tình cảnh khiếp sợ kinh hồn không thể nào chịu đựng, nhưng khuôn mặt thiếu niên vẫn một mực hàm tiếu, chỉ là bàn tay lại gảy càng lúc càng nhanh. Bất chợt, âm điệu thoắt chốc thay đổi, gió bụi dần lắng xuống, mênh mông vạn dặm trường, nhưng không chờ cho bọn tướng sĩ Mông Cổ trì hoãn thêm nữa, âm điệu lúc này lại xiết dâng bi tráng, trong tiếng đàng phảng phất như gầm gào tiếng vó ngựa truy binh, phía trước đã không còn đường lùi, phía sau có quân đuổi tới, trong thoáng chốc chuyển thành cảnh trí của gió phất liêu xiêu, tráng sĩ một đi không trở về, nhạn hồng thỏa cánh mang chí nguyện người về phương xa, tổng lại thì thành một khúc ca rất đỗi khảng khái bi thương. Hốt Tất Liệt thấy Mông Kha mắt nhìn đăm đăm, hai tay bấu chặt vào ghế, chỗ khớp ngón trở nên trắng bệch, trong lòng hắn thầm kêu hỏng bét rồi. Hắn tóm lấy một cái đĩa quay sang trước mặt mình đập những bình rượu vỡ loảng xoảng loạn lên, tiếng động kia không chút hề hấn nào tới khúc đàn còn đang tấu, nhưng đã kéo được hồn phách chúng tướng sĩ hốt hoảng trở về.

Phương Đình Quân mỉm cười đàn cho xong khúc nhạc, sau đó thu hồi hai tay lại tĩnh tọa. Khắp trong phòng lớn tất cả mọi người đều đang thở hào hển trong nín lặng. Hốt Tất Liệt nhìn nụ cười không thay đổi của thiếu niên, trong lòng bỗng thoáng xao động. Hắn xoay sang y cười nói: “Đàn tranh trong tay ngươi hẳn là cổ Tần tranh, Tần âm hào hùng bi tráng, chẳng trách sao ngươi lại dám đàn một khúc viết cho tỳ bà, khúc Bá vương tạ giáp này tấu rất tới nơi tới chốn, quả thật có thể nói là có một không hai.”

Phương Đình Quân bỗng dưng có hơi giật mình, giương mắt lên vội vàng nhìn thoáng qua Hốt Tất Liệt. Dù cái liếc mắt này cực kỳ chóng vánh, nhưng Hốt Tất Liệt vẫn thấy một nét kinh ngạc vô cùng trong mắt y. Từ nhỏ hắn đã được người ta sùng bái, ánh mắt nhìn hắn kính ngưỡng nịnh bợ không biết bao nhiêu mà nói. Nhưng không biết sao, ánh nhìn của thiếu niên cùng sự kinh ngạc kia tự dưng lại khiến trong lòng hắn vui sướng không gì sánh được.

Đám tướng sĩ Mông Cổ đã phục hồi tinh thần lại, không khỏi đều thẹn quá hóa giận, người đầu tiên bùng nổ không ai khác ngoài Nãi Nhan. Gã rút yêu đao ra lớn giọng mắng: “Khả Hãn, thằng nhãi con Hán nhân này là một gian tế, để ta làm thịt nó.” Nói rồi cũng không chờ Mông Kha lên tiếng đã lao đến Phương Đình Quân, tay vung lên ra bộ dáng muốn chém xuống. Phương Đình Quân thần sắc bất biến, chỉ mỉm cười ngước lên liếc mắt qua Nãi Nhan, càng khiến cho gã này tức giận đến độ sắc mặt biến từ đỏ gay sang đen đúa, tay chỉ còn chực chờ chém xuống. Mông Kha ngăn cản gã, nói: “Không được lỗ mãng, ta cùng với Tông chủ Nho giáo có mấy mối giao tình riêng, Phương công tử cũng là do ta mời tới góp vui, y coi như làm khách.”

Chờ đến khi phẫn nộ của Nãi Nhan dần rút đi, Mông Kha nhìn qua Phương Đình Quân với ánh mắt để lộ một chút hứng thú sâu xa. Ông ta mỉm cười nói với y: “Sư bá ngươi nói tuy rằng ngươi thiên tư thông minh, nhưng tình cách trời sinh không tốt, quả nhiên không phải giả.” Ông ta nhẹ ta lau đi một chút vết rượu vì tay run vừa nãy mà văng lên người, nói tiếp: “Không sao, ngươi chỉ cần nán lại chỗ này của ta về lâu về dài, tự khắc sẽ có người dạy dỗ.”

Phương Đình Quân nhạt giọng trả lời: “Sư phụ chỉ gọi ta đến đây tấu mấy khúc nhạc để góp vui, chưa hề đồng ý để ta nán lại quấy rầy Khả Hãn lâu dài, nhã ý giáo huấn của Khả hãn ta xin nhận lấy.”

“Tông chủ các ngươi còn chưa nói với ngươi rằng kể từ nay ngươi sẽ đi theo hầu hạ ta sao?” Mông Kha chân mày hơi nhíu.

Phương Đình Quân cười khổ, buông tay nói: “Ta chỉ biết có lệnh thầy, không hề biết còn có lệnh của Tông chủ. Nếu sư phụ ra lệnh, tất nhiên không dám không theo. Nhưng hôm nay không có lệnh thầy, đành phải cáo từ.”

Y nói rồi lắc đầu, tựa hồ như rất tiếc nuối mà đứng dậy khom người xuống thi lễ, ôm lấy đàn tranh liền dợm bước ra đi. Việc này khiến không chỉ có đám quân tướng Mông Cổ ngồi trong sảnh mà ngay cả trên mặt của Mông Kha cũng hiện ra sự không hài lòng. Chưa đợi ông ta mở miệng đã có kẻ đứng dậy loạt soạt rút binh khí.

Người Mông Cổ thiên tính hào sảng, vốn không có nhiều lễ nghi quy củ như người Hán, nhất là những người trong quân ngũ như thế này, chuyện động dao động thương trước mặt chủ tử căn bản vốn không đáng phải ngần ngại. Cũng chẳng cần chờ đến khi thị vệ bên ngoài kéo vào, vài kẻ đã bao vây Phương Đình Quân vào giữa.

Sắc mặt đạm nhiên của Phương Đình Quân không xao động mảy may, ngược lại còn mỉm cười: “Ta nghe nói người Mông Cổ dũng cảm hào sảng, Khả Hãn của các người cũng nói, ta chính là khách nhân ngài cho vời đến, thì ra các người đối đãi với khách như vậy hay sao?”

Chúng tướng sửng sốt, quay đầu nhìn về Mông Kha thì thấy ông ta không lên tiếng, biết Mông Kha đã cho phép giáo huấn tên tiểu tử người Hán không biết trời cao đất dày là gì. Vì vậy bọn chúng quay sang xoa tay hầm hè muốn lấy lại chút uy nghiêm cho Khả Hãn. Quả thực đã muốn động thủ, nhưng khi đối diện một nam hài tử thủy chung vẫn nở một nụ cười tươi thì không biết phải làm sao để ra tay. Với niên kỷ như vậy, dáng vóc của Phương Đình Quân so với người Hán không gọi là thấp, nhưng khi so sánh với đám quân sĩ Mông Cổ lưng hùm vai gấu, liền giống như dê lạc vào bầy hổ, có vẻ vô cùng nhỏ bé. Người Mông Cổ mặc dù không ngại động dao động thương, nhưng nếu mọi người đồng lọat tấn công một tiểu hài tử yếu ớt như vậy thì mặt mũi này còn biết vất vào đâu. Phương Đình Quân chính y cũng không hề sợ hãi, nét mặt tươi cười, thần sắc ung dung.



“Khoan đã, các vị tướng quân!”

Phương Đình Quân thấy Hốt Tất Liệt thân vận lam bào mỉm cười mở miệng chen ngang: “Phương công tử tinh thông âm luật, ngón đàn thành thạo khéo léo, há ta có thể để y bị thương, làm ra cái việc đốt đàn nấu hạc hay sao.” Hắn quay sang nhìn Phương Đình Quân cười nói: “Ngươi đã trọng lệnh thầy như vậy, nhưng Khả Hãn chúng ta cũng không thể phụ sự cậy nhờ từ sư bá của ngươi. Ngươi khăng khăng muốn ra đi, chỉ e là vì lo ngại trong đế quốc Mông Cổ ta không có chí sĩ hữu học thức, sợ sẽ làm thui chột lòng cầu học của ngươi mà thôi.”

Phương Đình Quân nghe vậy, cái cười trên mặt lệch đi, không mở miệng phản bác hắn, lại dường như có vẻ thừa nhận.

Con ngươi Hốt Tất Liệt thốt nhiên đanh lại, nét cười trên mặt hắn ngược lại càng sâu thêm. “Xưa nay ta ngưỡng mộ Hán học, mấy ngày gần đây nhàn rỗi vô sự, chiếu theo cổ Hán thư mà bày một trận pháp. Phục Hy phát minh ra Bát quái kinh dịch, vua Vũ nhà Hạ cống hiến Lạc thư, nhà Thương lại quy phạm thành chín phạm trù, đến đời Chu kinh dịch phát triển thành ba trăm tám mươi bốn quẻ. Phục Hy cũng xem như là lão tổ tông của người Hán đi, Bát quái kinh dịch cũng coi như là một trong những học vấn huyền ảo cao thâm bậc nhất của Hán học các ngươi. Người Hán có nhà đại Nho nào mà không phải tường giải qua kinh dịch một phen đâu. Tuy rằng cách lý giải có khác nhau, nhưng cũng có những chỗ tinh diệu riêng biệt. Hôm nay trận pháp này của ta coi như học theo Hàm Đan, lấy từ Lạc thư. Ta không ngại đánh cuộc với Phương công tử một ván, nếu ngươi có thể vượt qua được trận pháp ta bố trí, liền có thể tôn sư mệnh quay về Kiếm Môn Quan, nếu may mắn ta thắng được Phương công tử, thì mời công tử ở lại nơi này thêm mấy ngày.”

Phương Đình Quân trong lòng biết tỏng gã Hốt Tất Liệt này không phải là loại người tốt lành gì, nhưng tình thế hiện tại không cho phép y lùi dù chỉ nửa bước, huống hồ y tự phụ tài học, nghe xong nhanh chóng gật đầu trả lời: “Vậy thỉnh Hốt Tất Liệt vương gia chỉ giáo.”

Hốt Tất Liệt vỗ vỗ tay, bốn tên thị vệ từ ngoài cửa xếp thành hàng đi vào. Bốn tên này đều mặc giáp liễu diệp, bên hông đeo loan đao, rõ ràng quân hàm không hề thấp. Hốt Tất Liệt thấy chúng đã đến rồi thì quay sang Phương Đình Quân cười hỏi: “Chẳng hay Phương công tử dùng binh khí gì?”

Phương Đình Quân trong lòng thầm mắng chửi hắn giảo hoạt. Hốt Tất Liệt bên ngoài là bảo y phá trận, nhưng chắc chắn đã tính toán bố trí trận này trong ngoài kín kẽ, mà bốn tên kia cũng có thể cùng nhau xông vào y. Nhưng trên mặt y không chút đổi sắc, chỉ cười đáp một câu: “Vậy ta dùng kiếm thôi.”

Mông Kha đột nhiên bật cười mở miệng chen lời: “Đóng kín đại môn lại, sư bá của Phương công tử từng nói qua, y tuy rằng võ nghệ tầm thường, nhưng khinh công lại là số một số hai trong Nho giáo, không mấy ai có thể theo kịp cái bóng lưng của y đâu.”

Phương Đình Quân vẫn cười mỉm chi đáp một tiếng quá khen rồi. Rất nhanh có một tên thị vệ đưa đến mấy thanh kiếm, Phương Đình Quân không màng nhìn kỹ đã tùy tiện cầm lấy một thanh. Y rút kiếm ra khỏi vỏ, miết tay đôi chút lên mũi kiếm, sau đó lại duỗi thẳng kiếm ra rung lên mấy lượt kiếm hoa. Người xem bên ngoài chỉ thấy y dường như đang thật sự thử kiếm, hoàn toàn không để bọn thị vệ chực vây bắt y vào trong mắt… Những thị vệ được Hốt Tất Liệt lựa chọn để luyện trận pháp này nguyên là con dòng cháu giống trong tộc họ, có bao giờ phải chịu sự khinh bỉ mức này. Một trong số đó bất ngờ rút yêu đao ra, nhắm thẳng vào kiếm của Phương Đình Quân mà chém tới, chỉ nghe có tiếng lách cách vang lên, thanh trường kiếm trong tay Phương Đình Quân đã bị chém đứt thành mấy đoạn vương vãi dưới đất. Y nom như chấn kinh không nhỏ, còn tay cầm chuôi kiếm đã mất đi không ít khí lực. Người trong sảnh ồ ạt cười to, Nãi Nhan càng cười đến mức nước mắt đều ứa ra.

“Coi ra Hán nhân có cái bãn lĩnh quái gì, có tay cũng chỉ biết dùng để đánh đàn, làm như một ả đàn bà, chỉ mới cầm lấy vật của nam nhân đã muốn làm trò cười cho thiên hạ.” Nãi Nhan vừa rũ ra cười vừa bình luận với người khác. Chúng tướng đương nhiên phụ họa theo, Mông Kha bị một màn trước mắt làm cho hứng thú, cười nói: “Cho nên mới thấy âm thịnh dương suy, người Hán trước đây lợi hại, nhưng hiện nay âm khí quá thịnh, còn cách lụn bại không xa nữa rồi.”

Phương Đình Quân mỉm cười nhặt mấy đoạn kiếm trên đất lên, tỉ mỉ so sánh một lúc rồi thở dài: “Vị thị vệ đại ca này hảo công phu, mỗi mảnh đều chém được bằng nhau như vậy, không đi bổ củi thực sự là đáng tiếc.”

Tên thị vệ kia nghe vậy trừng mắt quát: “Tên Hán nhân này không biết sống chết.” Đang nói, đột ngột có một hắc y nam tử da ngăm đen bước ra ngoài, chậm rãi đi đến gần Phương Đình Quân, thị vệ bao quanh thấy hắn lập tức liền nhường một lối đi. Phương Đình Quân giương mắt nhìn sang, thấy đó là một thanh niên anh tuấn, mặc dù nước da ngăm đen, nhưng càng làm nổi bật ngũ quan tuấn tú như được chạm trổ trên khuôn mặt. Phương Đình Quân không thể nghĩ được rằng trong người Mông Cổ còn có một nam nhân phong thần tuấn lãng đến như vậy.

Hắc y nam tử ôm quyền nói: “Tại hạ họ Tiết, tên Ức Chi, tự Hạo Nhiên, gặp qua Phương công tử.”

Phương Đình Quân vừa nghe thấy tên này không khỏi thầm kêu khổ trong lòng. Từ lâu y đã nghe nói trong người Mông Cổ có một vị cao thủ kiếm thuật huyết tộc nửa Hán nửa Mông, võ đường Nho giáo từng phái đi mười tám tay cao thủ kiếm thuật cùng người này mà luận kiếm, kết quả đều trở về thảm bại. Nếu như hắn ta cũng tam gia trận pháp này, ngày hôm nay coi như không còn cửa nào quay về nữa. Y cố che giấu sắc mặt, nhẹ cười đáp lễ.

Tiết Ức Chi dường như thấu được suy nghĩ cua y, nói rằng: “Trận này tuy rằng do Hốt Tất Liệt vương gia kiến thiết, nhưng các thị vệ này đều do ta huấn luyện. Hôm na ta chỉ đứng bên ngoài chỉ huy, không thể lâm trận mà so kiếm cùng công tử, thật sự tiếc nuối.” Hắn nói rồi, rút từ bên thắt lưng ra thanh kiếm của chính mình trao đến trước mặt Phương Đình Quân, nói: “Thanh kiếm này tuy rằng không phải chế tác của danh gia, nhưng cũng coi như là một thanh lợi kiếm, theo ta đã nhiều năm. Nếu công tử không chê, đừng ngại cứ cầm lấy dùng một lát.”

Hắn ở một bên quan sát đã lâu, thấy Phương Đình Quân lâm vào thế cường địch rình rập mà vẫn có thể bình tĩnh ung dung, tuy rằng uy vũ nhưng không lấn át trận thế, trong lòng rất bội phục. Hắn vốn dĩ trời sinh chất phác, trong lòng nghĩ như thế nào, lời nói cùng hành động bên ngoài đều sẽ thể hiện hết ra thế ấy. Hắn thấy kiếm của Phương Đình Quân bị chém gãy, liền nhịn không được tiến lên giao bội kiếm của mình cho Phương Đình Quân để giải thế trận bủa vây. Như vậy, bọn thị vệ kia đều là thủ hạ của hắn, ắt sẽ không dám cẩu thả lợi dụng vũ lực chém đứt bội kiếm của chủ nhân nữa.

Phương Đình Quân sửng sốt, nhưng nhanh chóng đã phục hồi lại như cũ, thoải mái nhận lấy thanh kiếm, rút kiếm ra, chỉ thấy lưỡi kiếm sắc bén, thân kiếp dài hẹp, từ sống kiếm phản chiếu một ánh sáng xanh leo lét.“Hảo kiếm!” Phương Đình Quân gật đầu khen ngợi, y dùng tay miết nhẹ một chút lên đỉnh kiếm, rồi hốt nhiên phóng một kiếm chém chiếc đàn tranh vừa đặt xuống án kỷ đứt ngọt làm đôi. Tất cả mọi người bị hành động của y làm cho kinh hãi, chỉ thấy khi Phương Đình Quân vung kiếm, trên mặt y xuất hiện một tia tàn độc, nhưng kiếm thu về rồi thì nét mặt lại hoàn toàn hòa nhã như gió thoảng, lại rạng rỡ như nắng trời. Y hướng về Tiết Ức Chi mà cười: “Đã kiểm chứng, đa tạ, quả nhiên là một thanh hảo kiếm”. Sau đó lại quay sang Mông Kha thi lễ: “Khả Hãn giáo huấn rất phải, nam nhân há sao có thể suốt ngày chỉ gảy đàn chơi đùa mất hết ý chí, nhất định phải là cầm kiếm tiếu ngạo sa trường mới đúng.” Sau đó hướng về bọn thị vệ ôm quyền, nói: “Các vị thị vệ đại ca, thỉnh chỉ giáo nhiều cho.”

Bọn thị vệ vừa bị chiêu thức vừa rồi của y làm chấn động, tuy rằng nghĩ thiếu niên trước mắt võ nghệ không đáng là bao, nhưng không còn dám có lòng khinh thường nữa, lập tức trở về đúng phương vị của mình.

Bốn góc mà bốn tên thị vệ đứng phân ra thành các cung Khôn, Tốn, Càn, Ly, bao vây Phương Đình Quân vào chính giữa, nếu nhìn sơ qua sẽ thấy là một trận pháp Cửu cung bày chưa hoàn chỉnh, nhưng thực ra chính là vị trí của Tứ tượng trong Lạc thư, liên hợp cùng phương vị của Phương Đình Quân lại kết nên Ngũ Hành. Sự diệu dụng của trận pháp này chính là khiến người bị nhốt vào trong cũng trở thành một nhân tố của thế trận, năm phương vị này di chuyển phải nhất loạt cùng nhau, tự nhiên như vốn có, công thủ đều tự động dệt thành. Phương Đình Quân bất luận có phá vòng vây từ chỗ nào đều phải chịu sự ngăn chặn liên miên bất tuyệt.

Phương Đình Quân than thầm trong lòng rằng gã Hốt Tất Liệt này hóa ra cũng có mấy phần thực học, bày ra được một trận pháp độc địa vi diệu nhường này, các thế trận bình thường khác không thể nào đem ra so sánh được. Y thấy trên mặt Hốt Tất Liệt có vẻ đắc chí, đột nhiên xao động cánh tay, những đoạn kiếm gãy vốn cầm trong tay bay vụt ra ngoài cắm xuống vào khe giữa các phiến gạch, vừa vặn ở ngay chính nghĩa các phương vị hướng chính Bắc, chính Tây, chính Nam, chính Đông. Chỉ nghe thấy tiếng cười nhẹ của Phương Đình Quân: “Trận pháp của Vương Gia dùng Lạc thư mà đặt thành, Thập Khí thấy rất có hứng thú, còn trận này của ta lấy từ Hà Đồ mà tạo, cũng coi như lấy đề tài ngay thực địa.”

Sắc mặt Hốt Tất Liệt khẽ biến, nguyên bản là một trận thế rất hiểm, nhưng bây giờ lại bị Phương Đình Quân dĩ pháp chế pháp, bổ sung thêm bốn nguyên tố vào bốn phương vị còn khuyết. Vốn dĩ cục diện lấy khiếm khuyết thành chu toàn, giờ đây lại là từ chu toàn mà sinh khiếm khuyết, bên ngoài mềm mại mà bên trong vững chãi, Lạc – Hà hợp thành nhất thể. Bốn gã thị vệ nọ luyện trận pháp nhiều ngày, cũng biết được sự lợi hại của Bát Quái trận đồ, hiểu rằng lúc này nếu đi sai một bước tức khắc rơi vào trong ảo giác, đến lúc đó lại công kích lẫn nhau không hay biết. Cho nên hết thảy đều đứng trơ ra tại chỗ không dám cử động.

Trong khắp sảnh e rằng chỉ có Tiết Ức Chi thầm mừng rỡ thấy Phương Đình Quân có thể xoay sở được một cục diện có lợi. Không biết vì sao trong lòng hắn đối với thiếu niên còn chưa hết tính trẻ con này rất có hảo cảm. Mắt hắn thấy y đương dạt dào tiếu ý, phát hiện ra thiếu niên này đang cười thật sâu, bên phía trái khuôn mặt lại mờ nhòa ẩn hiện một nét má lúm đồng tiền.

Hốt Tất Liệt đột nhiên gọi hắn: “Ức Chi, đệ ra trận đi.” rồi nói thêm: “Quả thật ta rất thành tâm muốn mời Phương công tử ở lại nhà mình uống chén rượu nhạt đó.”

Tiết Ức Chi ngấm ngầm thở dài, trận pháp này nguyên bản dùng để lấy nhược kháng cường, nếu như cả nhược lẫn cường đều bị vây vào một phương vị duy nhất, thế trận tất không còn khả dụng. Hắn nghĩ như vậy liền tung người xông vào trong trận, cục diện Ngũ hành lập tức bị phá nát, dòng khí lưu chuyển ào ạt trong trận vừa dừng, mọi người đều không hẹn cùng thở phào nhẹ nhõm. Ngũ hành mặc dù đã phá, nhưng Hà Lạc trận do Hốt Tất Liệt cùng Phương Đình Quân cùng tạo tác vẫn còn tồn tại, đám thị vệ vẫn không dám hành sự lỗ mãng, tất cả đều đang tự thủ lấy trận vị của chính mình.

Tiết Ức Chi ôm quyền hướng về Phương Đình Quân nói một tiếng tạ lỗi, rồi ngay tức thì phóng người về trước. Phương Đình Quân không giao tranh chính diện cùng hắn, mà ỷ vào khinh công tinh diệu không ngừng di chuyển vòng vo. Nhưng vòng tròn bị bọn thị vệ bao vây vốn rất nhỏ hẹp, thoáng sau đã thấy y bị bức đến cửa tử ở hướng chính Đông trong trận địa. Tiết Ức Chi một chưởng đánh tới, hốt nhiên phát hiện Phương Đình Quân đã bị khí lưu ở cửa tử tác động, thân thể lảo đảo, tất nhiên không né được Tiết Ức Chi công kích ngay chính diện. Tiết Ức Chi mắt thấy một chưởng của hắn sắp đánh vào trong ngực Phương Đình Quân thì cuống quýt thu lực, lòng bàn tay nhẹ chếch lên, một chưởng kia vừa vặn đánh vào bờ vai y. Phương Đình Quân liền nương theo một chưởng của hắn mà xuyên qua cửa tử hướng chính Đông.

Trong lòng Tiết Ức Chi thầm hối hận, hắn biết rõ nếu vượt qua cửa tử, bản thân không chết cũng sẽ trọng thương, huống chi Phương Đình Quân còn lãnh trọn của hắn một chưởng. Ấy vậy mà lại thấy Phương Đình Quân xoay người nhẹ hẫng giữa thinh không, chân chấm đất trong bình yên vô sự, còn vẻ mặt hàm tiếu thì không chút đổi thay. Tiết Ức Chi trong lòng ngập tràn thảng thốt, lại nghe thấy tiếng tán thán của Hốt Tất Liệt: “Tuyệt diệu, tháng Ba đến tiết xuân phân, sao Mộc lại lên phía Đông trời. Ngươi vượt qua khỏi cửa tử, Ức Chi lấp vào hành Thổ của ngươi, Ngũ hành lập tức khôi phục, cửa tử của Lạc Hà trận vì vậy cũng đã trở thành cửa sinh. Dồn đến chỗ chết sau đó lại hồi sinh, bội phục!”

Hắn hít một hơi thật sâu, trông thấy niên thiếu ấy kinh tài tuyệt diễm, cả một đời này tiếng bội phục kia chưa bao giờ được nói ra một cách cam tâm tình nguyện nhường ấy.

Phương Đình Quân mỉm cười trả lời: “Đa tạ! Nếu tại hạ đã may mắn thắng Hốt Tất Liệt Vương gia, vậy xin cáo biệt từ đây.”

Hốt Tất Liệt dẫu có mỉm cười nói một tiếng không tiễn, nhưng bụng dạ lại thầm nghĩ người thiếu niên này dù bất cứ giá nào cũng phải bắt về bên người hắn, nhân tài như vậy mai này nếu không thành bằng hữu thì nhất định thành cường địch.

Phương Đình Quân quay sang nhìn Tiết Ức Chi còn đang sững sờ, cười hỏi: “Thanh bảo kiếm này ngài có thể nào tặng cho ta?”

Tiết Ức Chi ngẩn ra, rồi há hốc mồm nói: “Thanh kiếm này về sau có thể theo công tử, là vinh hạnh cho nó.”

Phương Đình Quân bèn cười nói đa tạ, xong ôm quyền nghênh ngang đi mất. Chúng tướng sĩ nghệch mặt nhìn nhau. Phương Đình Quân lúc đến ôm đàn, khi đi mang kiếm, ở một nơi như thế – trong một gian sảnh lớn tề tựu các tướng lĩnh Mông Cổ đã chiếm hơn phân nửa giang sơn – mà vào ra như ở chốn không người.

Mông Kha trông như đang có điều trầm tư, cầm chén rượu trong tay một hơi cạn sạch, nhẹ giọng lẩm bẩm: “Nghiễm ca, quả không hổ là con trai của huynh và Triệu Thị Như.”

Tiết Ức Chi nhìn bóng dáng Phương Đình Quân đi xa dần, thêm vài bước nữa đã thấy một chút dấu vết cũng không còn nữa, nhưng khi nhìn những vết chân nông sâu không đều mà Phương Đình Quân để lại phía sau, trong lòng không khỏi xao động.

-oOo-

Bạn có thể dùng phím mũi tên hoặc WASD để lùi/sang chương.