Hữu Phong Minh Lang Quyển 1 Phong Khởi Vân Dũng

Chương 5: Chương 5: T H A N H X U Y Ê N




CHƯƠNG 4: T H A N H X U Y Ê N

Nắng sớm vừa hửng soi rọi tấm chiêu bài cũ nát của quán ăn ngoài trời trên bến đò sông Gia Lăng. Trên chiêu bài có khắc chữ Hợp Hòa Tửu Quán, bốn con chữ rách rưới hứng ngọn gió lay lất mặt sông. Quán không lớn, tình trạng cũng không phải còn rất tốt, nhưng buôn bán không tệ. Mối lái bến đò này tính ra rất được, đội đò thuyền không nhiều lắm, đầu năm nay phàm là ai có thuyền khó lòng nào không bị trưng thu cho quân dụng. Do đó phía sau bến nước rất đông đúc, quán ăn buôn bán tự nhiên cũng khá khẩm.

Tiểu Hà là con gái của chủ quán rượu, cô vừa rửa bát bên này vừa không ngừng đưa mắt trông ngóng gã thiếu niên vận hắc y đang ngồi ở mé đông. Đó là một gã trai trẻ quái đản, hôm nào cũng tới chỗ này ăn, sau đó uống trà suốt một ngày, liên tục như vậy dễ có khi nửa tháng nhưng chưa hề thấy gã đón đò qua sông. Tiểu Hà còn rất trẻ, trẻ trung thì khó tránh khỏi hoài xuân, mà lúc thiếu nữ đương hoài xuân thì trí tưởng tượng cực kỳ phong phú. Hành vi cử chỉ của thiếu niên này khiến Tiểu Hà khó ghìm được tưởng tượng rằng là nhắm vào cô. Dù cô không được xinh đẹp, nhưng rõ ràng cô còn trẻ. Còn thiếu niên kia tuy rằng không thể nói rằng gã rất anh tuấn, nhưng có nước da trắng trẻo, đôi mắt tuy không lớn, nhưng lúc nheo lại nhìn người khác lại có một sự quyết đoán khiến tim người ta phải đập dồn.

Thiếu niên hắc y không phải không hay biết có một cô bé dung mạo bình thường suốt ngày nhìn chăm chăm vào mình. Tất nhiên gã không muốn bị dán mắt vào liên tục suốt năm sáu canh giờ, nhưng gã phải chịu đựng. Gã đang chờ đợi một người. Bởi vì gã bị chính sư phụ của mình tống tặng cho người này làm nô tài. Người này đã hoạn sư phụ của gã, vậy mà sư phụ gã lại tôn kính y như thần thánh. Mà trước đó sư phụ trong tâm trí gã đã là thần thánh rồi.

Gã nghĩ sư phụ mình là một con người phong nhã, một hái hoa tặc phong nhã. Cũng giống như sự trái ngược giữa chữ nhã và chữ tặc trong cùng một tên phường trộm cắp, gã nghĩ giữa tặc loại này và tặc loại kia cũng khác nhau một trời một vực. Sư phụ tuy rằng hái hoa, nhưng chưa bao giờ miễn cưỡng bất kỳ một cô gái nào khi cô ta không muốn. Sư phụ gã cùng các cô cộng độ lương tiêu là các cô cam tâm tình nguyện, cũng không thiếu mấy lúc sư phụ đổ bệnh tương tư. Nhưng chỉ mới chạy tới Tứ Xuyên một chuyến đã bị người ta hoạn, rồi biểu hiện của sư phụ sau đó giống như muốn quỳ rạp dưới chân người đã thiến mình. Thậm chí còn không hề tiếc rẻ mà đưa gã đồ đệ đã đi theo mình hằng mười mấy năm mà chưa kịp xuất sư lấy một lần cho y làm nô tài.

Gã đã từng hỏi sư phụ vì sao sư phụ không tự mình đi mà hầu hạ. Sư phụ nghiêm trang lắc đầu nói không thể được, đã biết bản thân mình ô danh có tiếng, trong tương lai vạn nhất có ai đó nhận ra há chẳng phải sẽ làm nhơ sự trong sạch của y. Thiếu niên hắc y nghe xong suýt chút nữa nổi sùng, bởi lẽ sư phụ gã luôn luôn tự phụ được hưởng cái mỹ danh làm hái hoa tặc. Vì vậy, cùng lúc với sư phụ bắt đầu ăn chay niệm phật, gã nửa hiếu kỳ nửa tuân sư mệnh mà chạy tới địa điểm ước định bên bờ sông Gia Lăng này để đợi người tới. Lúc gã thấy tấm chiêu bài của quán ăn này không biết nên tức giận hay phì cười. Nghe đâu lúc nhà này khởi sự mở quán, hôm khai trương cũng tức là ngày ông chủ thành hôn với bà chủ, cho nên một vị tú tài mới nửa đùa nửa thật đặt dùm họ luôn cho cái quán này hai chữ Hợp Hòa. Thiếu niên hắc y nhìn tấm chiêu bài nửa buổi trời mới bực dọc ngồi xuống, trong lòng mơ hồ nghĩ vị chủ tử tới đây chắc hẳn phải có cái bộ dáng sáo rỗng thích chỉnh người.

Đương lúc gã còn dùng ánh mắt chất chứa thù hằn nhìn về hướng nam thêm lần nữa, bất chợt phát hiện từ phía đằng xa có một người đi tới – đó là một thiếu niên mặc áo vải đay màu vàng ngà. Dù cho gã không trông chờ gì mình với thiếu niên này có liên quan gì với nhau, nhưng vẫn không thể không nhìn thiếu niên này hết mấy lần. Bởi vì người thiếu niên này thật sự rất khiến cho người khác phải chú ý, không phải vì tướng mạo anh tuấn của y, mà là nơi y có một sự tao nhã rất khó lòng diễn tả, dường như bất chấp áo quần y có bình thường bao nhiêu, cử chỉ có giản đơn bao nhiêu cũng khó mà che giấu đuợc sự thanh quý của bản thân. Ngay cả Tiểu Hà cũng bỏ dở chén bát, ngơ ngác ngóng sang phía thiếu niên, thấy y càng lúc càng tiến đến gần quán ăn thì trong mắt không khỏi nảy sinh ý vui mừng.

Người thiếu niên ấy đi đến trước mặt gã áo đen, sau đó ngồi xuống phía đối diện với gã, thản nhiên cầm lấy bánh bao của gã mà ăn.

“Ngươi là Thanh Xuyên sao, ta là Phương Đình Quân.”

Thanh Xuyên há hốc, trăm triệu lần gã không thể nghĩ rằng người thiến sư phụ mình xong còn được sư phụ mình phục tùng sát đất lại có thể là một thiếu niên thanh tú, hơn nữa nom tuổi tác còn nhỏ hơn cả mình dễ có hai ba tuổi.

Chờ gã lấy lại bình tĩnh, Phương Đình Quân đã rót rượu ra ngoài chén, không thèm khách khí bắt đầu nhấm nháp Nữ nhi hồng trong bình của gã.

“Làm sao ngươi biết ta là Thanh Xuyên?” – Thanh Xuyên tối sầm con mắt nhìn Phương Đình Quân, tâm trạng của gã lúc này đã xấu tới cùng cực. Vốn lẽ gã tưởng đâu người mình đi theo chí ít cũng phải là một vị đại hiệp khí phách ngời ngời, nào có ngờ đâu là một tên quỷ con. Phương Đình Quân nâng chén cười tủm tỉm, Thanh Xuyên bất chợt mới hay thì ra chủ tử mới của gã có một đôi tay đẹp đẽ không gì có thể sánh được.

“Ngươi ngồi phía cập đông, mắt vọng về nam, hiển nhiên đang đợi người từ phương Nam tới. Mặt ngươi có sát khí, mắt tối sầm, người ngươi đợi chắc chắn không phải bằng hữu, nhưng kiếm của ngươi còn nằm trong vỏ, người đó chắc chắn không phải cừu nhân.”

Mắt Phương Đình Quân khẽ nheo lại, hấp háy. Nắng hửng trên khuôn mặt tươi cười của y, nom thuần khiết và vô hại. Y cười nhẹ tiếp tục nói: “Ngươi lấy màn thầu làm thức ăn chính, hiển nhiên là người đến từ miền bắc. Tầm hai mươi tuổi, thích mặc áo đen. Ta thật sự không nghĩ ra ngoại trừ gã đệ tử Thanh Xuyên của đệ nhất hái hoa tặc Lương Tiêu của phương bắc đã bị ta thiến thì là người nào khác nữa.”

Thanh Xuyên trố mắt nhìn Phương Đình Quân. Gã đột nhiên ý thức được rằng người thiếu niên thanh tú ngời ngời này chính là một con cáo con giảo hoạt. Gã đành phải dậy rồi quỵ gối trước mặt Phương Đình Quân nói: “Thanh Xuyên ra mắt thiếu gia, mai này nhất định sẽ trung thành, hết lòng tận tụy vì thiếu gia. Thiếu gia gặp hỏa hoạn, Thanh Xuyên rót nước cho cậu. Thiếu gia nhỡ có chết đuối, Thanh Xuyên sẽ la hét bớ người ta cứu mạng cho cậu.”

Phương Đình Quân mỉm cười không đáp, ngồi xuống tự rót uống một mình. Thanh Xuyên quỳ gối đằng kia cả buổi cũng không nghe thấy y gọi đứng dậy. Khách khứa đến đến đi đi trước cửa quán ăn, ai cũng trố mắt tò mò nhìn Thanh Xuyên. Nhưng Thanh Xuyên chịu đựng không nổi nhất chính là ánh mắt của Tiểu Hà. Trước được người ta dùng ánh mắt đầy tơ tưởng mà trông ngóng, sau cũng chính người đó đổi thành ánh mắt coi thường, đại đa số con người chắc chắn không kham nổi. Nhất là, Tiểu Hà bây giờ chỉ dùng độc mỗi ánh mắt ngưỡng mộ để nhìn Phương Đình Quân.

Cô bé tới bàn bọn họ hai lần, một lần là một đĩa đậu rang, lần thứ hai là đem tặng hai quả trứng luộc lá trà. Khi cô nghe Phương Đình Quân cười khẽ ôn tồn nói câu cảm tạ, cả khuôn mặt cô đỏ lựng như treo hai mảnh vải điều. Thanh Xuyên quỳ ở đằng kia âm thầm mắng chửi đồ nữ nhân lẳng lơ ong bướm. Gã ngồi lì chỗ này suốt nửa tháng cũng chưa hề thấy cô nàng tặng cho nửa đĩa đậu phụ. Mà ngay lúc Thanh Xuyên không biết phải quỳ đến năm nào tháng nào thì bất ngờ Phương Đình Quân đứng dậy, nói: “Đi thôi, đò đến rồi.” Thanh Xuyên vội vã rướn lên, còn chưa chịp xoa cái chân tê rần, Phương Đình Quân đã nhảy lên đò. Gã chỉ còn biết đuổi theo.

Nhà đò Vương Đại Đầu đang chống cây dằm đẩy đò rời bến, chợt nghe thấy tiếng Tiểu Hà gọi khoan đi đã. Cô vội vã chạy đến, vùi chiếc gói giấy vào trong tay Phương Đình Quân, trong mắt lộ vẻ mong chờ, cô hỏi: “Huynh còn trở về không?”

Phương Đình Quân mỉm cười nhìn Tiểu Hà, nói: “Nếu không trở về được, ta cũng nhớ rõ món đậu rang của cô, ăn rất ngon.” Nhất thời khóe mắt Tiểu Hà đỏ hoe. Vương Đại Đầu gắng sức chống sào một cái, đò liền rời bến. Khi đò đã đi được một quãng xa, Thanh Xuyên thấy Tiểu Hà hãy còn đứng trên bến nước.

“Ngươi thích cô ta, có phải không?” Phương Đình Quân hỏi Thanh Xuyên.

“Thiếu gia giỡn chơi chắc, ta mà đi thích một nha đầu xấu xí như vậy à.” Thanh Xuyên nhếch môi, đen mặt nói.

“Vậy sao ngươi ghen?” Phương Đình Quân híp mắt hỏi, lần này Thanh Xuyên không đáp.



Chẳng bao lâu sau đò đã sang đến bờ bên kia. Thanh Xuyên hỏi Phương Đình Quân rằng muốn đi đâu. Phương Đình Quân nghĩ ngợi một lát, nói cứ tới thành Đại Hoạch ở kế cận đi. Lúc hai người họ vào đến thành Đại Hoạch, trời đã đổ bóng chiều. Đại Hoạch bấy giờ còn trực thuộc bên trong Nam Tống, là một thành trấn miền núi, dựa lưng vào núi mà trụ. Tra soát nơi cổng thành cực kỳ nghiêm mật, chỗ nào cũng đầy rẫy một vẻ tiêu điều xơ xác, giống như mưa bão sắp kéo về.

Thanh Xuyên tìm tới Gia Lăng tửu quán lớn nhất trong thành mướn phòng xong xuôi, hai người bỏ tay nải mang theo người xuống, nghỉ ngơi sơ sài một chốc rồi đi xuống dưới lầu ăn uống. Tuy rằng chiến tranh ập tới, nhưng tửu lầu Gia lăng buôn bán vẫn thịnh vượng như xưa, khắp nơi đều ra vẻ ca vũ thời bình, hầu như bàn nào cũng có khách khứa ngồi kín. Thanh Xuyên nhíu mày, gã đi theo Lương Tiêu cũng nhiều năm rồi, đối với chuyện sinh hoạt thường ngày cùng ăn uống có hơi câu nệ, nếu không phải vạn bất đắc dĩ thì không thèm chịu đựng cảnh phải ăn đồ thừa ở phòng hai.

Đang lúc gã còn đắn đo không biết có nên bảo tiểu nhị đưa cơm vào trong phòng hay không thì tiểu nhị đã chạy tới trước mặt bọn họ, tươi cười giả lả: “Hai vị đại ca này, bên kia có một khách nhân mời sang ngồi chung.” Hai người phóng mắt nhìn qua, thấy nơi cạnh song cửa có một thanh niên phục sức sang trọng mỉm cười nhìn mình. Cả một sảnh đường chỉ có hắn được một chỗ ngồi đơn độc, lại còn là vị trí tựa song tuyệt hảo. Thanh Xuyên thấy người này mày khảnh mắt dài, từng cử chỉ đều tỏa khí thế. Gã còn đang nghĩ người này trông rất được, Phương Đình Quân đã cất bước đi về phía thanh niên.

“Đa tạ vị khách quan đây, chúng ta còn đang lo lắng không tìm ra chỗ ngồi.” Phương Đình Quân cười nói.

“Đừng khách khí, một mình ta cũng không ngồi hết bốn cạnh bàn được. Nếu như công tử không chê, ta có gọi rất nhiều món, còn chưa động đũa qua, công tử có thể nào vui lòng cùng tại hạ thưởng thức, đồng ẩm mấy chén rượu nhạt?” – Thanh niên hoa phục cười nhẹ mà nói.

Phương Đình Quân thoải mái ngồi xuống bàn, cười: “Vậy cung kính không bằng tuân mệnh.” Y ngồi xuống xong, lập tức có một gã nom dáng vóc như là người hầu của thanh niên hoa phục kia lập tức đi qua rót rượu cho Phương Đình Quân.

Lúc này Thanh Xuyên chỉ có thể đứng phía sau Phương Đình Quân. Người ta là thị hầu, gã cũng thị hầu người ta đứng ở phía sau chủ tử, gã tự nhiên cũng chỉ có thể đứng phía sau chủ tử. Gã nhòm cả một bàn đầy món ngon mà thầm nuốt nước miếng ừng ực, đồng thời trong bụng cũng ngấm ngầm oán hận Phương Đình Quân.

“Tại hạ họ Lý, tên Bặc Ca, liệu có thể thỉnh giáo tục danh của huynh đài hay chăng.” Lý Bặc Ca vẫn một mực tươi cười rạng rỡ, khách sáo hỏi thăm. Thanh Xuyên nghe thấy cái tên cổ quái như vậy suýt nữa đã bật cười sằng sặc.

“Không dám, tại hạ họ Phương, tên Đình Quân.”

“Phương. Đình. Quân.” Lý Bặc Ca thấp giọng lặp lại, phảng phất như sâu xa ý vị, sau đó hắn mở miệng cười: “Đình Quân, Đình Quân, chẳng hay công tử sẽ dừng lại vì ai?” Lý Bặc Ca nói, Phương Đình Quân mỉm cười. Y không đáp, dõi mắt trông ra dòng sông bên ngoài cửa sổ, giữa lòng sông leo lét mấy đốm đèn dầu mắc trên các thuyền chài.

Lý Bặc Ca cũng nhanh chóng đổi chủ đề trò chuyện. Hắn cười cười, chỉ vào món ăn trên bàn mà bảo: “Công tử đi đường phong trần mệt mỏi, chắc là lần đầu tiên tới thành Đại Hoạch. Thôi thì ta cứ mặt dày mày dạn giới thiệu cho công tử một chút danh hào ở chốn này. Đây là tuyết lê thái thịt, tên nghe qua có vẻ tầm thường, nhưng tuyết lê thành Đại Hoạch thiên hạ đều nghe tiếng, ngọt và giòn, làm ra món này, ăn vào thanh nhã cùng sướng miệng.”

Hắn lại chỉ vào một món ăn trông cực kỳ diễm lệ trên bàn tiệc mà cười: “Đây là gà xé sợi chưng cùng nấm Trúc tôn, thật ra là một món ăn ngon của vùng Vân Nam, có điều khi cải biến lại thì càng có thêm một phần đặc sắc. Món này lấy hải sâm loại tốt nhất cùng với nấm Trúc tôn ở Nghi Tân phối cùng chân giò hun khói do chính nông gia trên núi cao tự hun tại nhà, còn có gà xé sợi cùng lòng đỏ trứng. Món làm ra theo thứ tự có đủ năm màu trắng, đỏ, vàng, xanh, nâu, đầy phong vị mà không mất đi thanh nhã.”

Hắn thành thật kể rõ ràng tỉ mỉ từng bước một giới thiệu cho Phương Đình Quân. Con người này ăn nói không tầm thường, đối với ẩm thực cũng có nhiều tâm đắc, món ngon khắp trời nam đất bắc cứ tự tin nhón tay ra đã bắt được đến sâu xa, thuyết giảng êm ai cuốn người ta vào cảnh tượng đầy ngoạn mục.

“Lý công tử trong tim bao quát cả thiên hạ, thật sự phải khiến người ta kính phục.” Phương Đình Quân đợi đến khi hắn kể qua hết một lượt mới nhàn nhạt cười nói.

Đồng tử Lý Bặc Ca đanh lại, cười nói: “Công tử đùa sao, ta là một kẻ ăn nói hàm hồ, làm sao có được cái chí ôm gọn trời đất?”

Phương Đình Quân quan sát Lý Bặc Ca, nghiêm nghị nói: “Với tài năng của Lý công tử, há chỉ là am hiểu ẩm thực khắp trời nam đất bắc hay sao? Chỉ sợ là phong thổ khắp tứ hải cũng nắm rất rõ trong lòng rồi. Công tử đã có chí thiên hạ, vì sao không dám nói ra?”

Phương Đình Quân nâng chén rượu trước mặt lên cạn sạch một hơi, nói: “Đình Quân ở nơi đây chúc công tử trước, mong huynh thực hiện được chí lớn.”

Lý Bặc Ca sững người ra một lát, rồi cũng nâng chén trước mặt mình lên một hơi uống sạch: “Là Lý Bặc Ca khiến Phương công tử coi thường rồi.”

Hai người cứ một bên uống rượu, một bên đàm luận sự tình trong thiên hạ, trò chuyện với nhau rất sôi nổi, mãi cho đến khi tửu lâu gióng lên một hồi chuông báo đóng cửa mới quyến luyến từ biệt. Sắp sửa ra đi, Lý Bặc Ca lấy ra một tấm danh thiếp đưa đến Phương Đình Quân, nói: “Ta chuyến này đi vội, không mang theo vật lưu niệm nào khả dĩ tặng cho công tử. Có thể quen biết với Phương Công tử e rằng là thu hoạch lớn nhất trong chuyến đi này của ta. Có điều thời gian quá chóng vánh, không thể cùng công tử ở lại nơi này bàn luận sâu thêm. Nếu công tử không chê, ta mong có cơ hội người đến phủ để tụ hội.”

Đợi cho đến khi thân ảnh của hắn đã chìm khuất sâu thẳm trong màn sương đêm tối, Phương Đình Quân mới mỉm cười mở tấm danh thiếp kia ra nhìn. Thanh Xuyên cũng nhịn không được tò mò chồm người qua ngóng. “Nha, thiếu gia à, thì ra cái tên Lý Bặc Ca này ở phía trước còn có một chữ A, gọi là A Lý Bất Ca, vậy không phải chính là người Mông Cổ đó sao. Hắn ta là ai đây?”

“Là một người đệ đệ của đương kim Mông Cổ khả hãn Mông Kha.” Phương Đình Quân cười nhẹ, nhạt giọng nói, nhưng khiến Thanh Xuyên cả kinh cả nửa buổi mồm há hốc ra không khép lại được.



Tới khi hai người cùng trở về phòng nghỉ ngơi, Thanh Xuyên mới hay rằng mình đói sắp sửa hết chịu đựng nổi. Phương Đình Quân căn bản giống như không hề nhớ ra rằng gã chưa ăn cái gì, y ngả đầu xuống liền ngủ. Thanh Xuyên đói meo mốc, lăn qua lộn lại trên mặt đất, nhưng ương bướng chống cự không ăn thức ăn đặt trên bàn do Tiểu Hà gói theo cho Phương Đình Quân. Gã ôm bụng đói cho đến khi bầu trời chuyển thành tang tảng sáng mới ngủ qua quít, nhưng còn chưa thiếp đi được bao lăm đã bị Phương Đình Quân gọi tỉnh. Thanh Xuyên tức tối trong ngực, sau còn nghe thấy Phương Đình Quân nhìn vào túi đồ ăn của Tiểu Hà nói to, tiếc quá, quên ăn cho nên hư hết cả rồi. Dứt lời một chút dư quang trong khóe mắt quét qua Thanh Xuyên. Thanh Xuyên làm như không phát hiện ra ánh mắt trêu tức đó.

Hai người ăn sáng xong xuôi, Thanh Xuyên hỏi Phương Đình Quân bây giờ muốn đi tới đâu. Phương Đình Quân trả lời cứ tùy tiện đi ra khỏi thành là được rồi.

Còn chưa đến buổi trưa, Phương Đình Quân đã để Thanh Xuyên dừng xe lại một quán trà nhỏ bên lề quan đạo đặng nghỉ ngơi. Trong quán trà cũng chỉ có hai người bọn họ làm khách. Nhưng khi họ ngồi xuống chưa được là bao thì đã có một cỗ xe áp tiêu phủ rơm cỏ tiến vào nghỉ chân. Dẫn đầu vào trong là một hán tử phóng khoáng quát to: “Uy, ông chủ ơi, pha cho bọn ta mấy ấm trà ngon, mang ra thêm ba cân thịt bò, chín bát mì dương xuân, không được bỏ ớt cay, rửa sạch sẽ nồi nước lèo của ông rồi hẵng nấu mì cho bọn ta đấy.”

Chúng tiêu sư nghe vậy xong đều cười nói rằng Long Ngũ trên đường đi đã bị món cay làm cho phát hãi.

Ông chủ quán trà là một người đàn ông đã luống tuổi, thân hình cao lớn vạm vỡ, nhưng luôn luôn còng lưng xuống. Ông ta đi qua, nói: “Các vị đại ca cứ an tâm, tôi đi lấy cái nồi mới nấu cho chư vị.”

Tám người tiêu sư ngồi quây quần quanh hai cái bàn, còn lại người nài ngựa đánh xe vẫn ngồi yên lại trên mã xa. Một lát sau, trà đã pha xong, món thịt bò cũng đã cắt đâu vào đấy. Sau khi bưng ra, Long Ngũ lấy một chiếc ngân châm cực nhỏ thử qua, sau cùng thấy ngân châm vẫn sáng bóng y như cũ mới thỏa mãn gật gật đầu. Chúng tiêu sư nhất loạt gầm lên lao vào, ngay lập tức vồ lấy như lang thôn hổ yết.

Tới khi *** tiểu nhị bưng mì lên, Long Ngũ vẫn lấy ngân châm ra thử từng chén một, vẫn không có chuyện gì cả. Thử xong rồi, chính hắn dẫn đầu bưng lên một bát, nói: “Đoàn ta ăn mau lên, còn phải qua đò nữa. Hôm nay có lẽ đi tới Tử Đồng rồi ngủ lại thôi.”

Ngay lúc hắn vừa đưa đũa gắp một gắp mì đưa vào trong miệng, chỉ nghe xoảng một tiếng, bát mì bị vật gì đó đánh vào rơi xuống đất. Chúng tiêu sư đều bị chấn động giật mình, cúi xuống nhìn bát mì tung tóe trên mặt đất đương cắm một cây ngân châm nhỏ xíu, châm còn cắm trong sợi mì hãy còn đang rung bần bật. Long Ngũ trong cơn chấn động mạnh không tự chủ được mà rút ngân châm ra, chúng tiêu sư tức khắc kinh hô. Chỉ thấy phần đuôi chân đã nhuốm sắc đen. Một vị tiêu sư thốt lên: “Trong sợi mì, sợi mì có độc.”

Long Ngũ lập tức quay người lại nhìn, nhưng ông chủ quán dáng vóc cao lớn kia đã không còn ở đó. Hắn không khỏi sợ hãi tới ứa mồ hôi lạnh. Hắn chỉ biết rằng người ta có thể sẽ bỏ độc vào nước luộc mì, nhưng không nghĩ tới rằng bọn chúng sẽ bỏ độc vào bên trong sợi mì. Rốt cuộc là ai đã cứu bọn họ chín cái mạng? Hắn xoay người nhìn qua hai người khách nhân duy nhất trong quán trừ bọn họ. Một người là một thiếu niên tướng mạo thanh tú, thoạt trông qua rất yếu đuối, đang cúi đầu uống trà. Ngồi ở bên cạnh là một thiếu niên áo đen, đang lườm mắt qua phía họ. Long Ngũ thấy nhãn thần gã sắc bén thì không khỏi rùng mình, sang bên đó vái chào với gã rồi nói: “Chín người chúng ta đa tạ ân công cứu mạng.”

Thanh Xuyên dĩ nhiên biết rõ là Phương Đình Quân ra tay cứu bọn họ, nhưng thứ nhất vì gã không biết vì sao Phương Đình Quân phải cứu bọn họ, thứ hai không rõ làm sao y biết trong sợi mì có độc. Mắt thấy Phương Đình Quân không buồn hé răng, gã cũng chỉ ừ à cho qua một trận, nói: “Ta đâu có làm gì, vị đại hiệp này không cần khách khí.”

Long Ngũ cảm động cực kỳ, lại vái thêm mấy cái nữa nói rằng: “Thiếu hiệp gia ơn không cần báo đáp, thật là hiệp nghĩa chi sĩ.”

Hắn nói rồi móc từ trong lòng ra hai đĩnh vàng nguyên tất cung tất kính đặt trên bàn, nói: “Không mang theo vật nào quý trọng, một chút tâm ý này mong thiếu hiệp vui lòng nhận cho.”

Thanh Xuyên không nghĩ được một gã tiêu sư nho nhỏ lại có thể ra tay rộng rãi như thế, mừng đến mức mở cờ trong bụng. Dẫu gã đã được Lương Tiêu bồi dưỡng nhiều năm, nhưng bởi lẽ thiên tính tạo thành mà yêu tiền hơn cả yêu con gái. Nghe như vậy tức khắc liền ho khan: “Ta không lấy của huynh, chỉ sợ huynh cũng không được an lòng. Thôi được, ta sẽ miễn cưỡng nhận vậy.”

Long Ngũ nghe vậy thở phào nhẹ nhõm, cười mà bảo: “Đúng vậy. Thiếu hiệp nếu ngày sau rỗi rãi, kính thỉnh đến Phước Oai tiêu cục ở Thành Đô để tại hạ tận tình làm chủ, dùng lễ đón tiếp.” Nói rồi gã quay trở lại chỗ chúng tiêu sư, bái biệt cùng họ thêm lần nữa, rồi mới áp xe tiêu đi mất.

Thanh Xuyên đợi cho bọn họ đi xa rồi mới lấy ống tay áo chùi quanh hai đĩnh vàng nặng chịch trị giá đủ hai mươi lượng hoàng kim, miệng nói: “Thiếu gia, ánh mắt cậu thật chuẩn ghê, mấy gã này rất đáng để cứu.”

Đột nhiên phát hiện Phương Đình Quân không đáp lời, gã giương mắt nhìn sang, thấy y đang nhón ngón tay cầm chén trà, thần sắc nhìn gã rất cổ quái. Thanh Xuyên gượng gạo cười: “Thiếu gia, vừa rồi là do cậu không nói gì cả mà, ta cũng chả định bụng mạo danh lĩnh công.” Phương Đình Quân khẽ cười một cái, bảo rằng: “Ngươi sợ gì chứ, ta chỉ là phát hiện ngươi cực kỳ thích hợp làm đại hiệp đấy.”

Thanh Xuyên bật cười lên ha hả, cũng không tỏ được vị thiếu gia này đang khen ngợi hây châm chích gã. Phương Đình Quân đứng dậy, bảo: “Đi thôi.”

Thanh Xuyên ngạc nhiên hỏi: “Chúng ta đi đâu?”

Phương Đình Quân cười nói: “Người ta không phải mời ngươi tới Phước Oai tiêu cục hay sao, ngươi mà không đi thì người ta làm sao tận tình làm chủ đối đãi lễ nghĩa?”

Thanh Xuyên lần đầu tiên tán thành hết lớn đối với đề nghị của chủ tử. Gã gật gù: “Không sai, người tiêu sư đã hào phóng như vậy, chắc ăn có thể gom thêm hai đĩnh vàng nguyên nữa đây.”

Phương Đình Quân nghe thấy chỉ mỉm cười. Hai người họ vừa chớm rời đi, Phương Đình Quân đột ngột cau mày, than thở: “Ngươi đi tới rặng cây phía đằng trước xem có thi thể của ông chủ quán thật sự hay không, nếu có, đào cho ông ấy một cái huyệt để mai táng đi.”

Thanh Xuyên nửa tin nửa ngờ đi về phía rặng cây phía sau quán trà để dò xét. Vừa đi qua tới thì chợt hô lớn thất thanh: “Chỗ này, chỗ này thật sự có một cái xác.” Thanh Xuyên thương hại nhìn vào ông chủ thật vừa thấp người vừa gầy gò, một bên vừa niệm A di đà Phật, một bên lấy ngay kiếm ra đào luôn tại chỗ một huyệt mộ rồi mai táng ông ta vào đó. Xong xuôi hết rồi, gã vừa lau mồ hôi vừa đi về phía Phương Đình Quân đang đứng bên quán trà. Lúc này đây trong lòng gã rất đỗi tò mò, cầm lòng không đặng mở miệng hỏi Phương Đình Quân: “Thiếu gia, làm sao cậu biết kia không phải là lão bản thật sự, còn nữa, làm sao cậu biết trong mì của bọn họ có độc?”

Phương Đình Quân với tay xốc miếng vải đặt trên chiếc bàn dài lên, bên trong là một nhúm sợi mì nhuyễn. Thanh Xuyên nhìn thấy gắp mì này thì bừng tỉnh đại ngộ: “Thiếu gia, cậu phát hiện ra mì của bọn họ khác biệt với của chúng ta, so với mì của ta thì sợi thô hơn.” Gã thấy Phương Đình Quân mỉm cười gật đầu thì lại không hiểu rõ mà hỏi: “Nhưng, nhưng trước hết vì sao cậu biết lão bản kia có vấn đề?”

Phương Đình Quân mỉm cười nói: “Ngươi đứng ở nơi này rồi mà còn nghĩ không ra được nguyên do?”

Thanh Xuyên cau có nhìn hết một lượt khắp trên dưới trái phải, rồi thành thật trả lời: “Nghĩ không ra.”

Phương Đình Quân buông mảnh vải trong tay xuống mà nói: “Ông chủ thật sự nhất định phải là một người rất thấp.”

Bấy giờ đây Thanh Xuyên mới chợt hiểu hết nguồn cơn, cả tiếng kêu lên: “Thiếu gia phát hiện ông chủ nọ tướng tá cao lớn như vậy nhưng lán che quán trà lại dựng thấp lè tè.”

Phương Đình Quân gật đầu, y chỉ vào cây sào trúc còn cắm trên mặt đất bảo rằng: “Ngươi coi, dấu hằn dây thừng ở đây, hiển nhiên cái lán này luôn luôn đựng ở độ cao tầm ấy, hơn nữa đã rất nhiều năm rồi. Cho nên ta hỏi ông chủ cao to nọ rằng hắn mở quán trà này đã mấy năm, hắn trả lời cũng bảy tám năm. Bảy tám năm trời thì cớ gì dựng lán thấp như vậy, mỗi ngày đều phải còng lưng bên dưới?”

Lần đầu tiên Thanh Xuyên không biết phải nói gì với chủ tử, dẫu cho trong lòng vẫn còn ý hận đối với gã thiếu gia này, nhưng hiện tại không thể không bội phục tâm tư xuất chúng của Phương Đình Quân.

“Đi thôi.” Phương Đình Quân hờ hững nói một câu liền quay gót đi ra khỏi lán. Thanh Xuyên nhìn bóng dáng tấm lưng gầy của y, trong lòng đột ngột có một cảm giác không biết phải nói làm sao, tuồng như một loại kính phục, rồi lại hình nư có chút gì đó ngưỡng mộ. Hơn nữa còn có một chút cảm giác thân thiết loáng thoáng, ngay cả chính bản thân gã cũng chẳng hiểu gì cả, gã cư nhiên lại nảy sinh cảm giác thân thiết với chủ tử sao. Gã tự mắng mình là đồ không biết tự trọng, rồi rảo bước đuổi theo bóng dáng của Phương Đình Quân.

Hai người dọc theo đường đi theo sát xe áp tiêu của Long Ngũ ở đằng xa, đi hết hai ngày đường dẫu có kinh sợ nhưng không mấy hiểm nguy, cuối cùng cũng nhìn thấy tấm biển đen tuyền thiếp chữ vàng của Phước Oai tiêu cục. Thanh Xuyên mắt thấy tòa nhà ngói lục mái cong, rường chạm cột trổ, không hỏi há to mồm. Vạn lần gã cũng không dám nghĩ một tiêu cục cư nhiên sẽ có một tòa nhà nguy nga chừng đó.

Gã thấy bọn người Long Ngũ cẩn thận đỡ nài ngựa xuống đất, sau đó dìu y đi vào trong đại môn tiêu cục, mới bừng tỉnh đại ngộ mà nói: “Té ra tiêu bọn họ áp đi là tiêu người.”

Phương Đình Quân cũng không nói gì, cùng Thanh Xuyên đi tìm một trà lâu ngồi uống trà suốt một ngày. Người đọc sách trong quán trà đang kể câu chuyện Trát Mộc Hợp lúc trước vừa bị thích sát, quân binh Mông Cổ suốt đêm triệt thoái khỏi Thành Đô.

“Rầm!” Người đọc sách vỗ cái phách gỗ xuống bàn, mặt tươi rạng rỡ mà kể: “Tưởng Trát Mộc Hợp kia thân cao chín thước, bình sinh nuốt máu người mà sống, một côn quất xuống nặng tựa nghìn cân không khác, nghiền thạch đá thành cát bụi thật gớm ghê, trong vòng trăm trượng vuông chẳng thể nhận ra bất cứ vật gì. Đại hiệp hắc y che mặt cười khẩy một hơi, rút toạc thanh bảo kiếm, các vị khách quan nói xem ấy là kiếm chi? Chính thị là thanh Đằng Không danh kiếm từ thuở xa xưa Bàn Cổ xé trời mở đất. Trong sách Thập Di Ký có giảng rằng, nhược bằng bốn bề hữu binh, kiếm trong tráp gầm như rồng gào như hổ, khi bay đi phó mặc theo hướng tay người chỉ. Đại hiệp vung ngón tay lên, kiếm liền lao ra khỏi vỏ, tức khắc chém tên yêu quái kia xuống dưới chân ngựa.”

Thanh Xuyên nghe xong vỗ đùi đánh đét, lớn tiếng khen đặc sắc, thầm nghĩ đây mới chính là đẳng cấp của anh hùng, mường tượng rằng đại hiệp kia ắt cũng phải thân cao chín thước. Nếu đi theo đại hiệp ấy làm nô tài thì tốt biết bao nhiêu. Gã đảo mắt qua thấy một bên khuôn mặt thanh tú của Phương Đình Quân, lập tức như quả bóng bị xì hơi, cả buổi trời im như thóc.

Phương Đình Quân nghe hết chuyện thì hơi cười cười, nghĩ bụng không biết từ lúc nào Long Vũ và Long Tinh trở thành đại hiệp che mặt? Hơn nữa khi y giết Đường Hạnh thì không mặc hắc y lẫn không hề che mặt, chắc là lão bách tính nói ngoa mà thôi.

Lúc đêm xuống y mới để Thanh Xuyên đi vào trong tiêu cục. Long Ngũ thấy bọn họ liền đại hỉ, nắm lấy tay Thanh Xuyên dẫn vào trong. Thanh Xuyên vừa đi qua khỏi cửa thì thấy bên trong cửa cách ba bước đặt lính gác, năm bước đặt tốp canh, lấy mắt ngó thì thấy quần áo đều là binh vệ của phủ Trí chế sứ Tứ Xuyên, không khỏi trên mặt lồ lộ một vẻ kinh ngạc.

Long Ngũ mặc dù tính tình thô kệch hào sảng, nhưng đối với ơn cứu mạng của Thanh Xuyên thì nhớ kỹ không quên, mắt thấy gã vừa lộ nét nghi hoặc liền lập tức tiến lên giải thích. Hắn nghé vào tai gã nhỏ giọng nói: “Sư phụ của ta lúc chưa thoái ẩn thì mở ra hãng tiêu Liên Thiên, là hãng tiêu lớn nhất tại Xuyên nội này. Về sau sư muội của ta gả cho Trí chế sứ Tứ Xuyên Trần Long Chi, ta trở thành thị vệ của triều đình, sư phụ bèn đóng cửa hãng tiêu an tâm dưỡng già.”

Thanh Xuyên mỉm cười nhỏ giọng bảo rằng: “Gã rể nhà sư muội của huynh về thăm nhà quá phô trương.”

Long Ngũ kéo tay Thanh Xuyên cười nói: “Thiếu hiệp, hôm nay ta dẫn huynh đi gặp một vị đại đại quý nhân.” Dứt lời, kéo Thanh Xuyên đi một mạch vào trong phòng khách. Thanh Xuyên miễn cưỡng ngoái lại, thấy Phương Đình Quân cau mày bám sát phía sau, không biết đang suy nghĩ điều gì. Lúc vừa mới tiến vào phòng khách, phía sau Thanh Xuyên có người cản bước Phương Đình Quân lại, gã vội vàng quay đầu lại nói: “A, đó là bằng hữu của ta!”

Long Ngũ phất tay áo, cười bảo: “Mời Phương công tử vào đi.”

Phương Đình Quân mỉm cười, cũng không nói gì nhiều mà đi theo mọi người vào phòng khách. Ngồi ở ghế chủ cư nhiên lại là một vị thiếu niên tuổi còn non trẻ, nhìn dáng dấp đó bất quá cũng chỉ mười bảy mười tám tuổi. Thân vận tấm áo choàng to rộng, trên nền vải dệt kim ánh vàng nhạt thêu hoa văn hình thoi. Thiếu niên này mày sẫm mũi cao, tướng mạo anh tuấn, một đôi môi cánh đào tuy rằng đã hủy đi uy nghiệm trên diện mục nhưng lại tăng thêm mấy phần phong lưu phóng khoáng. Bên dưới có bảy tám người đang ngồi, nhìn dáng dấp cũng biết mỗi người đều là đại quan quý nhân có vai có vế, nhưng đối với thiếu niên này lại cực kỳ nhượng bộ thủ lễ.

Y vừa thấy Long Ngũ đi vào sảnh, liền cười nói: “Mới nhắc đến ngươi, đi đâu vậy?” Chỉ chớp mắt đã thấy Thanh Xuyên bị Long Ngũ dẫn đi, liền chớp mắt nói: “Nha, ân nhân đã tới cửa nhanh như vậy rồi.”

Long Ngũ cười ha hả kéo Thanh Xuyên qua, quay sang tất cả mọi người nói: “Chính là vị tiểu anh hùng này đã cứu mạng tiểu vương gia cùng các huynh đệ chúng ta.” Nói rồi kể lại một lượt tình hình lúc đó, khiến mọi người luôn miệng thốt lên nguy hiểm thật, rồi đều dùng ánh mắt ngạc nhiên nhìn vào thiếu niên áo đen nhìn kiểu nào cũng thấy rất đỗi tầm thường.

Một nam nhân dáng vóc hơi béo tốt vận áo lụa nâu trong đám người ngồi bên dưới thiếu niên hoa phục kia cười nói: “Vậy đều nhờ vào hồng phúc của tiểu vương gia, Long Ngũ gặp được quý nhân, bằng không hắn bỏ mạng là chuyện nhỏ, nếu để tiểu vương gia vốn đi chuyến này đến đây để cố vấn cho chúng thần phải chịu nửa phần tổn thuơng, vậy thật sự là tội đáng muôn chết.”

Mọi người nghe xong lập tức bảo Trần Chế trí sử nói có lý, tiểu vương gia mỉm cười không đáp, nhưng trên dưới đều tỉ mỉ quan sát Thanh Xuyên.

Thanh Xuyên lần đầu tiên nhìn thấy nhiều đại quan quý nhân như vậy, trong nhất thời miệng khô lưỡi khô không biết phải nói điều gì. Với thân phận hạng này của gã, bình sinh tưởng chỉ cần nhìn thấy bất cứ gì có liên quan tới quan phủ đều liền muốn chạy cho thoát thân. Lúc đầu óc còn ong ong u u, chỉ thấy vị tiểu vương gia kia rời khỏi chỗ ngồi đi xuống. Thấy y càng lúc đến càng gần, Thanh Xuyên chưa hề nghĩ tới mình có thể ở gần một vị vương gia gần tới như vậy, tức thì hô hấp đều cuống quít cả. Nhưng thiếu niên kia chỉ đi sượt qua gã, dừng lại ngay trước mặt Phương Đình Quân, quan sát y thật lâu sau mới nói: “Vị công tử này?”

Phương Đình Quân cúi đầu thi lễ, bảo rằng: “Tại hạ đệ tử Nhạc đường Nho giáo Phương Đình Quân.”

Tiểu vương gia ngốc lăng một hồi, liền ôm chầm lấy bàn tay Phương Đình Quân, trên mặt lộ vẻ vui mừng: “Ta đã nghĩ ngươi mới có thể là Phương Đình Quân.”

-oOo-

Bạn có thể dùng phím mũi tên hoặc WASD để lùi/sang chương.