Tháng Ngày Giành Ảnh Đế Với Thái Tử

Chương 16: Chương 16: Chương 15




Vị trí.

Phần lớn kỹ năng diễn xuất của Lý Tùng Nhất đến từ thiên phú và kinh nghiệm nhẫn nhục trong kiếp trước. Cậu chưa từng học bất kỳ khóa diễn xuất chính quy nào, đó là một chuyện tốt cũng là một chuyện xấu.

Chuyện tốt là kỹ năng diễn xuất của cậu không bị giới hạn bởi khuôn khổ mà có thể phát huy một cách tự do, thường truyền cảm hứng và tạo cho người ta cảm giác tươi mới.

Chuyện xấu là Lý Tùng Nhất không thể học hỏi nhiều kinh nghiệm do các bậc tiền bối đúc kết, không hiểu rõ hệ thống diễn xuất, không đứng trên vai những người khổng lồ*, và không biết cách tìm ra lối diễn phù hợp cách điêu luyện hơn.

[1] Không đứng trên vai những người khổng lồ: Đây là một câu trích từ “Nếu tôi nhìn xa hơn những người khác thì đó là vì tôi đứng trên vai những người khổng lồ” của Isaac Newton. Ý nghĩa của cụm từ “đứng trên vai những người khổng lồ” là biết tận dụng thành tựu của những người đi trước để sáng tạo nên những điều mới mẻ ở mức cao hơn.

Thiếu sót này vừa hay được bù đắp bởi ghi chép của Trần Đại Xuyên. Nhưng dù sao, nó chỉ là trên giấy.

Trong đoàn phim “Chuỗi thức ăn”, các lý thuyết có cơ hội được đưa vào thực tế. Và điều tuyệt vời hơn hết là đồng đội của Lý Tùng Nhất đã giúp đỡ cậu rất nhiều.

Thai Hành là một diễn viên nghiêm túc, tốt nghiệp trường sân khấu điện ảnh nổi tiếng và có thành tích học tập xuất sắc. Khi đóng cùng Lý Tùng Nhất, hắn có thể truyền cho cậu nhiều cảm hứng.

Tào Xuân Lan là bậc tiền bối giàu kinh nghiệm không chỉ ở mảng diễn xuất mà còn ở đời sống. Người ta hay nói “thế hệ trước như một kho báu”, mà Tào Xuân Lan là một núi kho báu vô hạn. Dẫu kỹ thuật hay thái độ trong diễn xuất, thậm chí là quan điểm về cuộc sống thì Lý Tùng Nhất đã học được nhiều điều từ bà.

Phương Hữu Hành là một đạo diễn giỏi với kỹ năng chuyên môn xuất sắc. Y có thể đưa ra những lời khuyên bổ ích cho các diễn viên trên góc nhìn của một đạo diễn.

Những người này chưa bao giờ keo kiệt khi dẫn dắt cậu trong nghiệp diễn xuất. Đồng thời, họ còn có thể học được nhiều điều mới mẻ từ Lý Tùng Nhất. Thai Hành thường bày tỏ lòng ngưỡng mộ với cách diễn xuất tự nhiên của cậu, hai người cũng thường tích cực trao đổi kinh nghiệm với nhau.

Ngoài miệng thì Lý Tùng Nhất giảng giải lý thuyết, nhưng trong lòng lại bất lực khôn nguôi. Giả sử ném một Thai Hành yếu đuối, vô lực đáng thương vào hoàng cung —— Nơi mà ngay cả cung nữ đã thành tinh; sơ hở một chút, hay thậm chí biểu cảm bất thường đã có khả năng bêu đầu thị chúng, thì hắn cũng nhất định tôi luyện thành công kỹ năng diễn xuất tự nhiên.

Bầu không khí của đoàn phim hài hòa chưa từng có. Mọi người được phép ý kiến, được phép phạm sai lầm nhưng không cho phép mắc lỗi lặp đi lặp lại. Ngay cả khi ai đó bất mãn với một số phân đoạn trong kịch bản cũng có thể nêu ra với đạo diễn. Miễn là bạn chỉ đúng, và Phương Hữu Hành cho rằng nó có lý thì y nhất định thay đổi theo hướng bạn nói.

Thai Hành bất ngờ trước tính tình dễ chịu của Phương Hữu Hành. Hắn biết nhiều nhà biên kịch sẽ thay đổi nội dung mọi lúc mọi nơi theo sở thích của bên đầu tư, đạo diễn hay diễn viên. Nhưng chắc chắn trong lòng họ không vui, thường xuyên mắng nhiếc sau lưng người ta. Bởi nó ảnh hưởng đến sự hài hòa của kịch bản và làm cho logic của câu chuyện trở nên vô lý.

Lý Tùng Nhất biết Phương Hữu Hành từng buộc phải thay đổi nhiều lần cốt truyện để thu hút đầu tư. Theo lý mà nói, y nên chán ghét những người khác nhúng tay vào kịch bản.

Chẳng qua Phương Hữu Hành nở nụ cười chân chất, giải thích rằng: “Tôi ghét người ta sửa kịch bản bậy bạ. Nhưng các cậu nói đúng mà, thế tại sao tôi lại không sửa? Tôi chưa bao giờ nghĩ rằng điện ảnh là nghệ thuật của một người. Điện ảnh là một bộ môn nghệ thuật đòi hỏi tinh thần tập thể, yêu cầu tất cả các bên phải hợp tác với nhau. Dù tôi có lòng tự trọng cao cũng chẳng thể viết ra thế giới với trăm sắc thái. Tôi mượn ánh mắt của các cậu nhằm hoàn thiện thế giới trong kịch bản, làm cho nó chân thực hơn và toàn diện hơn. Thế không tốt à?”

Lý Tùng Nhất chưa bao giờ hài lòng với cuộc sống như hiện tại. Đạo diễn sáng suốt, đoàn làm phim đáng tin cậy và đội ngũ diễn viên đầy tính khiêu chiến. Mỗi ngày, cậu như thể khai thác sâu hơn tiềm năng của mình và đồng thời trải nghiệm niềm vui bất tận khi diễn xuất.

Dĩ nhiên, Lý Tùng Nhất cũng gặp phải một trở ngại.

Những diễn viên không xuất thân từ chính quy thường gặp vấn đề này —— “Quên ống kính“. Thỉnh thoảng, Lý Tùng Nhất bước ra khỏi phạm vi máy quay hoặc bước ra khỏi khu vực chiếu sáng. Đôi khi cậu ngẫu hứng thêm thoại, rõ là một cảnh hay nhưng tiếc thay đã chặn ống kính của diễn viên khác dẫn đến phá hỏng bố cục, thành thử bị xem là NG; còn mắc thêm những lỗi lặt vặt như chặn đạo cụ và phông nền.

Phương Hữu Hành cũng nhận ra vấn đề sau khi Lý Tùng Nhất có liền mấy cảnh hư. Y quyết định tạm dừng quay phim, trước tiên giảng giải cho Lý Tùng Nhất về kỹ năng nắm bắt ống kính.

Dẫu sao Thai Hành và Tào Xuân Lan cũng nhàn rỗi bèn tập trung vây quanh Lý Tùng Nhất, bắt đầu mở buổi dạy học theo nhóm.

“Cậu phải để ý chút. Diễn xuất không chỉ diễn tốt mà còn đòi hỏi sự phối hợp. Phối hợp với camera-man, chuyên gia ánh sáng, nhân viên đạo cụ và cả diễn viên đóng cùng cậu.” Phương Hữu Hành nói. “Cậu phải luôn bảo đảm bản thân ở trạng thái tốt nhất dưới ánh sáng và trong máy quay. Ngoài ra, cậu không thể chặn ống kính bạn diễn. Nếu đã làm được những điều trên, cậu có thể phấn đấu trở nên xuất sắc hơn bằng cách theo đuổi sự phối hợp với đạo cụ và đưa chúng trở thành một phần tử của diễn xuất.”

“Đúng, đúng. Cậu di chuyển thế này rất tốt. Bắt ống kính rồi đó.” Phương Hữu Hành động viên. “Cậu nhìn màn hình xem hiệu quả cảnh quay vừa rồi đi. Cậu đang dần có cảm giác ống kính. Từ từ quen thôi.”

Lý Tùng Nhất xem cảnh quay ban nãy với đạo diễn và những người khác, vẻ mặt như thể nghiệm ra chân trời mới. Phương Hữu Hành chiếu lại từng cái một cho cậu xem, hẳn nhiên là có sự khác biệt rõ ràng. Lý Tùng Nhất bèn lặng lẽ ghi nhớ những bước di chuyển đẹp nhất.

Phương Hữu Hành hài lòng trước năng lực thích ứng của Lý Tùng Nhất. Y nói: “Tụi tôi chỉ có hai máy quay, bắt ống kính tương đối đơn giản. Nhưng cậu vào mấy đoàn phim lớn thì phức tạp hơn. Thậm chí khi diễn cảnh nhóm, máy quay phủ đầy phim trường là chuyện bình thường. Cậu phải trao đổi trước với đạo diễn và camera-man để tìm ra vị trí tốt nhất, khi đó mới gọi là đẹp trong từng cảnh quay.”

Thai Hành nói thêm: “Nhớ chú ý ánh sáng nữa, đừng mải tập trung vào ống kính. Cậu cần tìm một điểm giao nhau giữa hai cái này. Đây vốn là công việc của đạo diễn, nhưng người ta không rảnh chỉ cậu từng bước và từng động tác. Mỗi khi cậu diễn thì phải tự kiểm soát nó.”

“Ừa.” Phương Hữu Hành bỗng than thở. “Hiện tại có quá nhiều nguồn sáng, nào chính nào phụ, nào ngược nào bên*. Tìm vài người đứng từng chỗ cốt thử hiệu ứng, sau đó đánh dấu vị trí rồi nói với diễn viên là xong. Thực ra, nó chả khó khăn gì. Nhưng dù sao thời gian của diễn viên là vàng là bạc, đâu ra dư dả cho người ta thử nghiệm chứ. Nhưng một diễn viên có kinh nghiệm lại khác, đoàn phim có thể tiết kiệm thời gian rồi. Nếu không nhạy cảm trước ống kính và ánh sáng, làm sao có thể trở thành một diễn viên giỏi đây?”

[2] Nguồn sáng chính (key light): là nguồn ánh sáng chủ yếu của cảnh phim. Đó sẽ là nguồn sáng có cường độ mạnh và mang tính định hướng nhất trong toàn bộ cảnh phim. Đây là nguồn sáng được thiết lập đầu tiên và được sử dụng để chiếu sáng chủ thể hoặc diễn viễn.

Nguồn sáng phụ (fill light): giúp chiếu sáng bóng đổ được tạo ra bởi nguồn sáng chính. Nguồn sáng phụ được đặt đối diện với nguồn sáng chính và thường không mạnh bằng nguồn sáng chính.

Nguồn sáng ngược (back light): chiếu sáng diễn viên hoặc chủ thể từ đằng sau và thường được bố trí cao hơn chủ thể mà nó chiếu sáng. Nguồn sáng ngược có tác dụng tách chủ thể hoặc diễn viên với background, giúp làm rõ hình dạng cũng như tăng chiều sâu của chủ thể.

Ánh sáng bên (Sidelight): là ánh sáng đến từ phía bên song song với diễn viên. Ánh sáng bên rất lý tưởng để tạo không khí drama và phong cách Chiaroscuro.

Lý Tùng Nhất gật đầu. Lần trước cậu đóng phim thần tượng của Thịnh Thiên Nhu, chuyên gia ánh sáng đánh bừa chứ chẳng tỉ mỉ như lần này. Dẫu khi cậu phạm sai lầm thì đạo diễn cũng lười giảng giải, có khi họ chỉnh sửa trong hậu kỳ rồi vẫn dùng thôi.

Phương Hữu Hành bảo: “Thai Hành nè. Cậu phối hợp với Tùng Nhất, xem thử Tùng Nhất có thể bắt camera khi hai người diễn chung không. Tùng Nhất, đừng mải lo về vị trí. Cậu còn phải hợp tác với bạn diễn.”

Tào Xuân Lan mỉm cười: “Khi nào hai đứa quen rồi thì cô nhảy vào, diễn thử cảnh ba người. Từ từ tìm hiểu. Không sao cả, chậm mà chắc.”

Lý Tùng Nhất nhoẻn miệng cười, trong lòng trào dâng cảm giác ấm áp.

Có mấy ai gặp được cơ hội này, một đạo diễn và hai diễn viên chuyên nghiệp tận tình chỉ dẫn bạn nắm bắt ống kính?

May mắn thay, Lý Tùng Nhất chưa bao giờ phụ lòng mong đợi của mọi người. Thậm chí, cậu còn vượt qua cả chúng. Khả năng bắt máy quay và ánh sáng của Lý Tùng Nhất phải nói rằng cực kỳ nhạy bén. Ban đầu cậu còn được cái này mất cái kia, song chẳng mấy chốc đã phát huy vượt bậc. Về sau, trong những phân cảnh phức tạp, cậu đã dễ dàng tìm vị trí thích hợp cốt phô ra những mặt đẹp nhất của mình dưới ánh sáng vừa phải.

Phương Hữu Hành khoanh tay xem lại cảnh vừa quay, gật gù nói với người bên cạnh: “Tùng Nhất rất biết cách thể hiện bản thân.”

Bạn gái của đạo diễn thầm than thở: “Thể hiện mặt tốt nhất là một dạng tự luyến cao cấp khác?”

“Ha ha.” Phương Hữu Hành cười lớn, không thể phản bác.

Họ đã nhìn thấu bản chất của Lý Tùng Nhất!

Quá trình quay phim diễn ra suôn sẻ, không gặp khó khăn gì lớn.

Một ngày nọ, Lý Tùng Nhất vừa đến phim trường thì Phương Hữu Hành đã gọi: “Mọi người tới đủ chưa? Họp chút nghen.”

Lý Tùng Nhất giật mình. Chuyện gì đã xảy ra đến mức mở họp chứ? Phải biết rằng khi họ tạm dừng quay vài ngày vì muốn hướng dẫn cậu nắm bắt ống kính, thì vẫn không rời máy quay dù chỉ một phút một giây.

Cậu bước tới với lòng tò mò sục sôi, tạo thành một vòng tròn với Thai Hành, Tào Xuân Lan và bạn gái của đạo diễn. Mọi người vây lấy Phương Hữu Hành ở giữa.

Phương Hữu Hành bỗng cảm thấy áp lực: “Mở cuộc họp nhỏ thôi. Đừng căng thẳng, cứ tự nhiên, tự nhiên đi.”

“Chuyện là vầy.” Phương Hữu Hành chạy ra khỏi vòng vây của mọi người. “Sắp tới có một cảnh. Tôi lưỡng lự không biết quay thế nào nên muốn xin chút ý kiến.”

Thai Hành nói giọng tư lự: “Hình như quay xong cảnh chính rồi. Khúc sau đâu còn âm mưu ghê rợn nào nữa.”

“Không ghê rợn, chỉ là hơi rối.” Phương Hữu Hành cau chặt mày, tựa hồ đã lấn cấn thật lâu. “Mọi người mở kịch bản ra đi, cảnh này nè.”

Phân cảnh khiến Phương Hữu Hành mải bối rối là khi cháu trai phát hiện bà nội bị kẻ lừa đảo gạt mất nhiều tiền, nên đã cố thuyết phục người bà đãng trí. Nhưng bà nội không tin, trái lại còn ra sức thuyết phục cháu trai hãy tin tưởng người ta —— “Cháu à, nó đến tìm bà là có lý do. Gia đình của mình có liên quan đến hoàng thượng! Mẹ của bà, tức bà cố của cháu từng tham gia tuyển tú*, suýt chút nữa vào cung làm phi! Cháu không tin ư? Để bà lấy ảnh cho cháu xem.” Bà cụ lấy ra một tấm ảnh đã ố vàng dưới gối do mẹ bà chụp khi tham gia tuyển tú.

[3] Tuyển tú: là đợt tuyển chọn các thiếu nữ chưa chồng. Đây là hình thức tuyển chọn nổi tiếng nhất trong hậu cung và phủ vương công nhà Thanh, cũng là loại đợt tuyển hậu cung được ghi lại tỉ mỉ và chi tiết nhất trong lịch sử Trung Quốc.

Phân cảnh này và tấm ảnh được lưu giữ hơn trăm năm đã chỉ ra sự đắm chìm trong vinh hoa của bà cụ. Bà trải qua năm tháng giày vò, chồng mất con chết; nhưng vẫn giữ khư khư tấm ảnh đại diện cho khoảnh khắc huy hoàng của gia tộc

“Vấn đề nằm ở tấm ảnh.” Phương Hữu Hành nhíu mày. “Lúc đó tôi chỉ nghĩ về cốt truyện, chứ chưa đào sâu vào chi tiết. Bây giờ phải chuẩn bị đạo cụ, và vấn đề ở đây là —— Nội dung của tấm ảnh thế nào mới ổn? Tôi có hai ý tưởng. Một là, người phụ nữ trong ảnh xấu đau xấu đớn. Tạo ra tiếng cười tương phản, nhưng điểm cười này dung tục và thấp kém quá. Hai là, người phụ nữ trong ảnh là một mỹ nhân. Chỉ có điều thế thì hơi nhạt nhẽo.”

Bạn gái của đạo diễn nói: “Trừ phi mỹ nhân là đóa hồng nổi tiếng. Chẳng hạn như Lâm Thanh Hà, Trương Mạn Ngọc hay Vương Tổ Hiền. Chứ đẹp bình thường thì nhạt lắm.”

Phương Hữu Hành nói với giọng điệu chua chát: “Dù anh bán hết thận của đoàn phim cũng chả mời nổi các chị. Nếu vẫn không được, vậy bỏ cảnh này đi.”

“Tốt nhất đừng bỏ.” Tào Xuân Lan đứng trên góc độ nhân vật. “Chỉ có cảnh này mới làm rõ bệnh lý của bà cụ, khiến nhân vật càng sâu sắc và lập thể hơn.”

Phương Hữu Hành cũng nghĩ vậy, nếu không phải trường hợp bất đắc dĩ thì y không muốn bỏ chút nào. Đoạn y hỏi Lý Tùng Nhất và Thai Hành: “Hai cậu thấy sao?”

Lý Tùng Nhất trả lời: “Tôi nghĩ tốt hơn hết là sử dụng hình ảnh người đẹp. Nếu bà cố của tôi xấu quá, làm sao có cháu trai như tôi được? Phi logic lắm.”

“Sao cậu luôn chớp được cơ hội khen mình trong mọi tình huống vậy?” Thai Hành tặng Lý Tùng Nhất cái lườm sắc lẹm. Một thoáng trông thấy khuôn mặt ưa nhìn của cậu, Thai Hành chợt cứng họng. Thôi, bỏ đi. Với khuôn mặt này mà cậu ấy không dùng “mỹ nhân kế” giết người là tốt lắm rồi, tự khen mấy câu có sao đâu?

Khoan! Một tia chớp xẹt qua trong đầu Thai Hành, chiếu sáng một cánh cửa.

Hắn đẩy cửa ra, bên trong chứa diệu kế!

Thai Hành nhìn Lý Tùng Nhất với đôi mắt long lanh.

Lý Tùng Nhất cảm nhận được nguy hiểm, bèn nấp sau lưng Tào Xuân Lan.

Thai Hành hồ hởi: “Cho Tùng Nhất hóa trang thành bà cố! Có điểm cười, có mỹ nhân, còn không nhạt nữa!”

Vèooo... Ba cặp mắt long lanh khác đều tập trung vào Lý Tùng Nhất.

Lý Tùng Nhất phản đối gay gắt: “Tôi biết tôi đẹp, nhưng tôi không hề nữ tính mà!”

Bạn gái đạo diễn đứng trên quan điểm chuyên môn cho hay: “Không sao. Đẹp đến một mức độ nhất định gọi là nét đẹp phi giới tính. Chỉ có người thấy mình không đẹp nên mới phân biệt nam nữ. Tùng Nhất, cậu đẹp bình thường hay là nét đẹp siêu phàm thoát tục đến nỗi phi giới tính?”

Lý Tùng Nhất:... Đây là một câu hỏi hết sức nguy hiểm.

Bạn có thể dùng phím mũi tên hoặc WASD để lùi/sang chương.