Trấm Chi Mị

Chương 66: Chương 66: Ngoại truyện về khuynh thành (phần đầu)




Edit: Đào Sindy

Beta: Thích Cháo Trắng

Một, nhành hồng cuối cùng của mùa hè

Lần đầu tiên Cố Khuynh Thành nhìn thấy Tần Trọng Ân là lúc mới vừa mười sáu tuổi. Khi đó, cha của cô là Cố Nhạn Diêu, nhà vật lý học trứ danh, vì đền đáp tổ quốc mà dẫn theo vợ con từ San Francisco - Bắc Kinh trở về nước, nhậm chức sở trưởng sở nghiên cứu Chinese Academy of Sciences (CAS). Từ lâu đã quen với khí hậu mùa hè của San Francisco với nhiệt độ trung bình chỉ ở mức 20 độ C, cô hai nhà họ Cố vừa về nước, quả thực là thấy khổ không thể tả với nhiệt độ động một tý là cao đến ba tám ba chín độ ở Bắc Kinh, ngày nào cũng giống như một con cá mắc cạn, tinh thần uể oải. So với cô em gái vô cùng khó chịu, Cố Dật Phu lại như cá gặp nước, anh mới vừa thi đỗ vào ngành vật lí học tại trường đại học Bắc Kinh nổi tiếng trăm năm, xếp vào học lớp đại học năm hai. Phong cảnh nơi đây hoàn toàn khác với ở Mĩ khiến cho mỗi ngày anh đều như được xem kính chiếu ảnh (*), dù là dòng chữ “Đại học Bắc Kinh” màu đỏ viết theo thể phỏng Tống (**) trên miệng chiếc cốc tráng men, hay hộp cơm các bạn học dùng để mua cơm trong căn tin có khắc chữ “Nhà máy sản xuất nhôm số một Bắc Kinh” đều khiến anh cảm thấy mới mẻ không thôi. Tương tự như vậy, nhìn anh mặc quần jean màu xanh đậm, đi giày thể thao màu trắng cũng khiến cho những bạn học nam chỉ mặc quần vải xanh lam, đi dép cao su màu xanh lá cây cũng âm thầm vô cùng ngưỡng mộ, khuôn mặt đẹp trai của anh, dáng người thon thả và phong cách đặc biệt khiến bạn học nữ hâm mộ không thôi. Kết quả là, tất cả mọi người đều coi trọng anh, duy chỉ có bạn học cùng lớp là Tần Trọng Ân có thái độ tương đối lạnh nhạt với anh.

(*) Kính chiếu ảnh: Một trò chơi dân gian của Trung Quốc và một số nước phương Tây, đặt bức ảnh nhỏ (chủ yếu là ảnh phong cảnh) dưới thấu kính, đặt trong một chiếc hộp được trang trí, sau đó cho người xem nhìn ảnh qua thấu kính đã được phóng đại lên.

(**) Thể phỏng Tống: Là một kiểu chữ Hán trong in ấn, bắt nguồn từ Khải thư – một cách viết chữ ở Trung Quốc bắt nguồn từ thời Đông Hán. Sau này qua nhiều triều đại, Khải thư được Mĩ thuật hóa, chữ viết ra thêm quy cách ngày càng đẹp hơn nên còn gọi “Tống thể tự” (chữ kiểu thời Tống). Sau này còn có thêm các cách mô phỏng theo “Tống thể tự” mà biến hóa thêm nhiều kiểu nữa gọi là “thể Phỏng Tống”.

Ở trong trường, Tần Trọng Ân cũng là học sinh nam xuất sắc, mãi mãi vẫn luôn trung thành với áo sơ mi trắng, quần xanh đen, giày vải màu đen, trông mộc mạc lại mang theo một chút khí phách hơn người. Lông mi dày rậm luôn rũ xuống, che giấu ngàn vạn tâm sự, vì vậy khi anh ngước mắt nhìn về phía ai đó thì đặc biệt rung động lòng người.

Cố Dật Phu không có thói nhỏ hẹp “Đã sinh Du, sao còn sinh Lượng” như người trong nước, ngược lại, anh còn rát tò mò hứng thú với người bạn cùng trường thần bí này. Nhất là khi biết ba của Tần Trọng Ân chính là Tần Hiến Nghi, vốn là giáo sư chuyên ngành Tôn Giáo Học tiếng tăm lừng lẫy trong nước, nhưng vì không thể chịu nổi nhục nhã, nên đã nhảy xuống đáy hồ lạnh lẽo tự tử, mẹ anh là Lâm San, là giáo sư rất có uy tín dạy ở khoa tiếng Trung trong đại học Bắc Kinh, trong lúc tranh đấu ngã từ trên đài cao xuống, biến thành người què. Anh trai là Tần Bá Ân bị ép chết trong Phong trào chống Hữu khuynh (*). Cố Dật Phu càng muốn kết bạn với Tần Trọng Ân. Sau nhiều lần lấy lòng, Tần Trọng Ân cũng dần dần phát hiện bạn “học sinh nước ngoài” này thật ra là người chân thành hào phóng, nói năng không tầm thường, rất có trình độ, không phải dạng công tử bột bất tài vô dụng, hai người cùng chung chí hướng, ngược lại dần trở thành bạn chí cốt của nhau.

(*) Phong trào chống Hữu khuynh: Là một phong trào Cách mạng tại Trung Quốc bắt đầu vào năm 1957, nhằm đàn áp những người có tư tưởng phê bình đường lối của Đảng Cộng sản Trung Quốc thời kỳ bấy giờ.

Đánh bóng rổ ở bãi tập của trường xong, Cố Dật Phu kéo tay Tần Trọng Ân đến nhà mình. Lúc ấy, nhà ở bình thường đều là nhà ngang, trên hành lang dùng chung hẹp dài chất đầy than hòn, bà chủ nhà đang nấu cơm và đồ ăn ở bếp ngoài hành lang. Phòng vệ sinh cũng dùng chung, sáng sớm mỗi ngày, hầu như đều diễn ra cảnh các cô gái tay phải cầm bô, tay trái cầm theo bàn chải tranh giành nhà vệ sinh công cộng để đổ bô. Trong hoàn cảnh này, Nhà họ Cố lại có ba phòng ngủ một phòng khách, trong nhà có phòng vệ sinh.

Tần Trọng Ân mới vừa vào cửa chính nhà họ Cố, chợt cảm thấy một loại cảm giác quen thuộc mơ hồ, có lẽ loại quen thuộc này đến từ tranh chữ trên vách tường, đến từ chiếc giá lớn chất đầy sách, đến từ chiếc đàn dương cầm hình tam giác rất đắt tiền đặt trong phòng khách kia, trước khi cả nhà bị Hồng vệ binh tịch thu gia sản, nhà anh ta và nhà họ Cố bày biện không khác nhau là mấy.

Cố Dật Phu rất nhiệt tình dẫn bạn tốt đi thăm phòng ngủ của mình, phòng ngủ của anh và em gái đều tọa bắc triều nam (*), ở giữa khéo léo sử dụng bình phong để ngăn cách ra, mỗi người một nửa.

(*) Tọa bắc triều nam: Quay lưng về phía bắc, nhìn về phương nam.

Mới vừa vào phòng ngủ, Tần Trọng Ân đã nghe thấy sau tấm bình phong có tiếng thiếu nữ lầm bầm: “Nóng quá, nóng chết mất thôi.”

Từ nhỏ cha mẹ đã thường xuyên bận rộn với công việc, Cố Khuynh Thành gần như là được Cố Dật Phu nuôi lớn, từ lúc Cố Dật Phu mới tám tuổi đã biết chỉ cần có một thanh chocolate, thì sẽ tự động lột giấy gói ra cho em gái ăn hết, mình thì ở một bên lặng lẽ nuốt nước miếng.

“Sao không bật quạt điện?” Cố Dật Phu bỏ lại bạn tốt, vòng qua bình phong, có chút đau lòng nhìn em gái ỉu xìu nằm bò ra bàn làm bài tập.

“Hình như cầu chì hỏng rồi. Em lại không biết sửa. Anh ơi, em nóng quá.” Tiếng thiếu nữ trong veo làm nũng rất tự nhiên.

Cố Dật Phu cầm quạt ba tiêu lên, vừa quạt cho cô, vừa nói: “Anh sẽ nghĩ cách.” Vừa dứt lời, hình như nhớ tới vứt bỏ bạn bè bên ngoài là hành vi tương đối không lễ phép, vội vàng kéo tay em gái nói: “Đúng rồi, anh có dẫn một người bạn về, chính là Tần Trọng Ân anh đã nhắc với em đấy.”

Hình như Cố Khuynh Thành có chút hứng thú: “Ồ, là Tần Trọng Ân.”

Tần Trọng Ân cứ nhìn thấy Cố Khuynh Thành một cách tự nhiên như thế. Đó là một thiếu nữ mảnh khảnh, da trắng như sứ, khiến cho anh liên tưởng tới chiếc bình sứ trắng cổ cao trước kia cha anh từng dùng để trồng hoa. Cô mặc áo sơ mi ngắn màu trắng, phía dưới là một chiếc váy hoa, dài đến đầu gối. Hai chân dài trắng mịn, đường đột chen vào tầm mắt anh ta, giống như một tia chớp, khiến trái tim anh ta nhảy lên loạn nhịp. Mái tóc đen tuyền được cô quấn qua loa ra sau gáy, dùng một cây bút máy Trung Quốc làm trâm để cố định lại, không hề giống các học sinh nữ khác trong trường nghìn người như một, đều dùng khăn để tết đuôi sam.

“Anh chính là Tần Trọng Ân? Anh của em thường nhắc tới anh, anh rất giỏi.” Đôi mắt của thiếu nữ đen nhánh không ngại ngần chút nào cứ thế nhìn chăm chú vào anh ta. Tần Trọng Ân cảm thấy gương mặt mình hơi nóng lên. Bởi vì không biết nói gì, anh chỉ có thể rời ánh mắt đi chỗ khác, nhìn chằm chằm vào “Lạc Thần phú” trên bình phong.

Khi đó Trung văn của Cố Khuynh Thành cũng không tốt, mặc dù ở Bắc Kinh cha mẹ chưa bao giờ lơi là dạy hai đứa con tiếng mẹ đẻ, nhưng con gái nhỏ trời sinh tính tình nghịch ngợm, chỉ cần cô biết đọc biết viết, có thể nói chuyện trôi chảy với người khác là đã hài lòng, đâu chịu bỏ thời gian ra đọc Đường Thi Tống Từ, hai thể loại thơ ca nổi tiếng. Tấm bình phong này đặt trong phòng ngủ đã một hai tháng, nhưng đây là lần đầu tiên cô chú ý đến chữ viết trên đó.

“Phía trên nói gì vậy anh Tần?” Cố Khuynh Thành nghiêng đầu nhìn hồi lâu, cô nhận được mặt chữ, cũng đọc được, nhưng ghép cùng với nhau, lại hoàn toàn không hiểu rốt cuộc chúng đang nói gì.

Mặt Tần Trọng Ân lại đỏ lên, là vì xưng hô trong miệng của cô, hai chữ anh Tần khiến anh không khỏi liên tưởng đến tiếng gọi của người thương.

“Trọng Ân, nhà cậu học sâu, nói cho Khuynh Thành một chút đi, khó được khi nó có hứng thú.” Cố Dật Phu đã nhìn thấu em gái rất có thiện cảm với Tần Trọng Ân: “Tớ đi tìm cầu chì.”

Khuynh Thành. Thì ra cô tên Cố Khuynh Thành. Lạ thật, anh lại không cảm thấy cái tên khoa trương này không hài hoà chỗ nào.

“Anh Tần, rốt cuộc ‘Lạc Thần phú’ nói gì vậy?” Cố Khuynh Thành đã đứng cạnh anh ta. Thậm chí anh còn ngửi thấy mùi nước hoa trên người cô.

“ ‘Lạc Thần phú’ là một bài phú thời Tam quốc do Tào Thực viết, tương truyền Lạc Thần chính là con gái Phục Phi của vua Phục Hi thời cổ, đi du ngoạn bị chết đuối ở Lạc Thủy, biến thành nữ thần của sông Lạc Thủy, cũng chính là Lạc Thần. Phú là một thể văn thời cổ, chú trọng trình bày và gieo vần, ‘Lạc Thần phú’ viết về chuyện tình yêu của người và thần, bởi vì thần và người khác nhau, không thể bên nhau trọn đời, cuối cùng đành bất đắc dĩ phải chia tay. Đương nhiên cũng có người nói thật ra thì Tào Thực đã mượn danh Lạc Thần, để biểu đạt nỗi buồn khổ về chính trị của mình.”

Tin tức trong lời anh nói quá nhiều, Cố Khuynh Thành nghe chỉ hiểu đại khái, nhưng cô gật đầu làm như đã hiểu, chỉ vào chữ trên bình phong bắt đầu đọc, đọc mấy câu liền hỏi Tần Trọng Ân chúng có ý gì.

“Thanh thoát tựa chim hồng vụt bay, uyển chuyển như rồng lượn, rực rỡ thu cúc, hoa thắm xuân tùng. Phảng phất như mây che vầng nguyệt, phiêu diêu như gió bay làn tuyết. Mấy câu này chính là miêu tả dáng vẻ bên ngoài của Lạc Thần, dịch ra đúng là nói Lạc Thần có dáng vẻ uyển chuyển như Hồng Nhạn bị giật mình mà nhẹ nhàng cất cánh bay lên, đường cong dịu dàng giống như Du Long bay lên không vui đùa; dung mạo rực rỡ như hoa cúc nở rộ mùa thu, lại xinh đẹp như cây Tùng tươi tốt mùa xuân; cử chỉ của nàng như có như không tựa làn mây mỏng nhẹ nhàng che khuất vầng trăng, động tác phiêu đãng như gió đông thổi bay bông tuyết.”

Lúc Cố Dật Phu cầm cầu chì đi vào đã nhìn thấy em gái mình nhìn chằm chằm vào bạn tốt. Trong ánh mắt không hề che giấu thiện cảm. Anh khẽ ho nhẹ một tiếng.

“Trọng Ân, cậu biết thay cầu chì không?” Cố Dật Phu có chút ngượng ngùng, không ngờ học vật lý, nhưng lại chẳng thể làm thật được, khó trách người xưa nói “Cuối cùng thì trên sách vở chỉ có thể cảm nhận được một phần, muốn hiểu được sâu sắc thì phải tự mình thực hành.”

“Được. Để tớ làm cho.” Tần Trọng Ân nhận đoạn cầu chì từ tay Cố Dật Phu, lưu loát trèo lên thang, lật lưỡi dao lên, tháo cầu chì bị hỏng ra, thay lại cầu chì mới, cả thảy chỉ mất ba phút.

Ánh mắt Cố Khuynh Thành sáng trong nhìn Tần Trọng Ân nhảy từ trên thang xuống, thật ra thì từ lúc cha và anh trai mất, thì Tần Trọng Ân chính là người đàn ông duy nhất trong nhà, những việc chân tay như đổi bóng đen, làm than nắm này có việc nào mà anh không làm được?

Cố Dật Phu đi mở quạt máy, lúc này quạt máy vẫn là món đồ tương đối hiếm, quạt máy phần phật phần phật xoay, thổi ra từng đợt gió nóng.

Cố Khuynh Thành đưa cho Tần Trọng Ân khăn lông ướt để lau mồ hôi, Cố Dật Phu liếc nhìn chiếc khăn màu trắng xanh, ý vị sâu xa liếc mắt nhìn em gái. Cố Khuynh Thành không chịu yếu thế trừng lại anh. Cố Dật Phu có chút buồn cười lắc đầu một cái, xoay người đi lấy cho bạn tốt ly nước sôi để nguội.

Tần Trọng Ân uống hai ngụm, mới chịu nói chuyện, Cố Khuynh Thành chợt hào hứng khoe với anh: “Anh Tần, em đàn dương cầm cho anh nghe nha, em vừa mới học được một bài mới.” Không đợi đối phương nói tiếp, cô đã như một làn khói chạy đến trước chiếc dương cầm, vén tấm vải nhung màu xanh lục phủ trên đàn để chống bụi, rồi ngồi lên ghế đàn.

Cố ý Dật Phu càng cảm thấy buồn cười, vỗ vai bạn tốt: “Nó không tuỳ tiện đánh cho người khác nghe đâu. Vẫn là mặt mũi cậu lớn đó.”

Tần Trọng Ân hơi mất tự nhiên quay mặt qua chỗ khác.

Cố Khuynh Thành oán hận liếc nhìn anh trai, Cố Dật Phu vô tội nháy mắt với cô.

Tiếng đàn dương cầm như nước nhanh chóng vang lên khắp căn phòng, giống như nước chảy róc rách nơi khe núi, bôn ba ngàn dặm chỉ vì đến với một người đã hẹn ước ở nơi xa. Ánh mặt trời chiếu xuyên qua tấm rèm màu xanh dương bằng lụa mỏng, tạo thành trên sàn nhà những vệt sáng nhỏ vụn, nhảy nhót theo giai điệu.

Nhiều năm sau Tần Trọng Ân mới biết giữa trưa hè hôm ấy, bài hát đầu tiên cô đã đàn cho mình nghe chính là bài “Nhành hồng cuối cùng của mùa hè”, là nhạc nền của một bộ phim Đức mang tên “Thiếu niên anh tuấn”.

Một nhành hồng cuối cùng của mùa hè / vẫn cô độc nở ra / tất cả người bạn đáng yêu của em / đều đã héo tàn mà chết / không còn một đóa hoa tươi / làm bạn cạnh em / chiếu rọi khuôn mặt ửng đỏ / cùng em thở dài bi thương.

Anh không muốn thấy em tiếp tục khổ sở / cô độc ở lại đầu cành / ước mong em có thể đi theo bạn của mình / cùng yên bình an nghỉ / tôi sẽ mang hương thơm cánh hoa của em / nhẹ nhàng dạo chơi trên khóm hoa / để em cùng bè bạn thân ái/ mai táng trong đất vàng đằng kia.

Khi chiếc nhẫn vàng của người thương / mất đi ánh sáng bảo thạch / khi tình bạn đáng quý kia khô héo / anh nguyện đi theo em / khi trái tim bé nhỏ trung thực kia tiều tụy / khi người yêu dấu chết đi / ai còn nguyện sống cô độc một mình / trên thế giới lạnh lẽo này!

~ ~ ~

Hai, ước mơ của em là trở thành Coco Chanel (*)

(*) Coco Chanel, tên thật Gabrielle Bonheur Chanel, là một nhà tạo mẫu người Pháp. Bà là người sáng lập thương hiệu thời trang cao cấp nổi tiếng Chanel.

Từ đó về sau, Tần Trọng Ân trở thành khách quen của nhà họ Cố. Cố Nhạn Diêu và vợ là Thư Đình Vân hết sức thưởng thức thiếu niên chững chạc thông minh này, khích lệ hai đứa con mình qua lại với anh ta nhiều hơn.

Lúc ấy, vì mối quan hệ tốt đẹp với Liên Xô, phần lớn sinh viên học tiếng Nga, tiếng Anh không được coi trọng, nhưng theo sau quan hệ căng thẳng với Liên Xô, quan hệ Trung Mĩ lại được cải thiện, không ít thầy giáo nước ngoài đã về nước dạy học, ví như chủ nhiệm ngành vật lí Triệu Bình Sinh mới từ Đại học Oxford của Anh trở về, luôn luôn ăn mặc theo phong cách của một quý ông nước Anh, uống hồng trà lipton, trong tay cầm một cây gậy văn minh, lúc đi bộ thường dùng để chống, lúc giảng bài thì dùng thay thước dạy học. Trên lớp còn thích giảng bài xen lẫn bằng hai thứ tiếng Trung - Anh, cũng làm khổ một đám học sinh.

Tần Trọng Ân học tốt tất cả các môn, duy chỉ có tiếng Anh là tương đối bình thường, có thể là do anh không có năng khiếu, hoặc vì bị cha mình ảnh hưởng, cấp hai và cấp ba anh ta đều học ở nông thôn, giáo viên tiếng Anh cũng không biết tiêu chuẩn dạy tiếng Anh quốc tế là như thế nào, dạy học sinh từ Tư Bản Chủ Nghĩa “capitalism” (Tư Bản Chủ Nghĩa) lại sợ họ không nhớ cách đọc, rốt cuộc cho phép bọn họ ghi chú cách đọc ở phía sau là “Cách vách Lý Sư mẫu“.

Cho nên đến một ngày, lúc Tần Trọng Ân ở nhà họ Cố viết báo cáo thực nghiệm thì cô ở một bên nhàm chán lật sách giáo khoa tiếng Anh của Tần Trọng Ân ra xem, thấy bên dưới đều dùng bút chì để viết những chữ Hán hài âm (*), làm cô không nhịn được cười khì khì một tiếng.

(*) Hài âm: Âm đọc gần giống hoặc giống nhau.

Bạn có thể dùng phím mũi tên hoặc WASD để lùi/sang chương.