Trường Mộng Lưu Ngân

Chương 1: Q.1 - Chương 1: Gặp Gỡ




Đời người có rất nhiều chuyện

Vốn dĩ không có lí do

Nhiều khi chỉ vì số phận

Không thể thay đổi, cũng không có lối thoát…

Với Lâm Sỹ Diên, ngày 7 tháng 10 năm 1978 đã trở thành cơn ác mộng ám ảnh suốt cuộc đời ông. Hôm ấy là một ngày thu, lá ngô đồng rụng khắp, trải dài những con đường rợp bóng cây, những chiếc lá úa vàng bị gió cuốn bay xào xạc, trong kí ức mãi về sau của Lâm Sỹ Diên, chẳng khác nào tiếng khóc ai oán nỉ non của người phụ nữ ấy.

“Người phụ nữ ấy” là một sản phụ.

Hồi đó, Lâm Sỹ Diên là Phó viện trưởng Bệnh viện Nhân dân Ly Thành, ông vốn không quen biết người phụ nữ quá đỗi bình thường đó. Sở dĩ, ông còn nhớ chỉ vì cô nằm chung phòng đẻ với Hương Lan, hơn nữa đều là ca đẻ khó, cần phải truyền máu, đặc biệt hơn nữa, máu của hai người cùng một nhóm. Điều khác duy nhất là ông không quen biết người phụ nữ ấy, ông chỉ biết Hương Lan - vợ của người bạn chí cốt Thư Bá Tiêu.

Sản phụ ấy vào phòng đẻ trước Hương Lan một tiếng, cô là vợ của một tài xế chuyên lái xe khách, bác sĩ đỡ đẻ đang nhanh chóng điều động máu dự trữ của bệnh viện.Tình hình sau đó dường như diễn ra theo chiều hướng tốt, tuy rất khó khăn nhưng đứa bé cũng ra được nửa người. Thế nhưng bên Hương Lan thì không ổn chút nào, cổ tử cung mới mở một lỗ nhỏ nhưng máu đã ồ ạt tuôn ra từ cơ thể cô, đừng nói đến cầm máu, nếu không có biện pháp kịp thời thì ngay cả truyền máu cũng không còn cơ hội.

Điều oái oăm nhất là bệnh viện lúc ấy lại không còn máu dự trữ, chỉ còn hai túi máu 400cc cuối cùng được lấy từ trạm máu, mà với ngần ấy chỉ đủ dùng để cứu một sản phụ. Phương án điều máu từ bệnh viện khác đến hay hô hào nhân viên trong bệnh viện hiến máu đều không có hi vọng, bởi nhóm máu của hai người đều thuộc nhóm máu hiếm, nhóm máu RH – mà mọi người quen gọi là “máu gấu trúc”. Hơn nữa, điều máu từ trạm máu của tỉnh về cũng không thể kịp, từ Ly Thành lên tỉnh riêng đi lại đã mất bốn, năm tiếng đồng hồ, chỉ sợ đợi đến lúc máu chuyển về tới nơi thì cả hai đều không thể cứu được nữa.

Nghe xong báo cáo của bác sĩ trực ban, Lâm Sỹ Diên bắt đầu cảm thấy ong đầu.

“Phó viện trưởng, làm thế nào bây giờ? Nếu cứ kéo dài như vậy, hai người đó đều nguy mất!”, bác sĩ trực ban sốt ruột dậm chân. Lâm Sỹ Diên đờ người trước cửa phòng sinh, lòng như thắt lại, ông hỏi lại bác sĩ trực ban: “Giường số mười… tình hình thế nào?… Hiện giờ đang truyền máu cho ai?” - sản phụ nằm giường số mười chính là vợ của người tài xế xe khách.

“Cô ấy vào trước một giờ, máu còn lại hiện giờ đang được truyền cho cô ấy. Tình hình đang ổn định, đứa trẻ sắp ra rồi, nhưng giường số ba tám…” Bác sĩ trực ban nghẹn lại không nói lên lời, tưởng chừng như sắp khóc, “Không có chỉ thị của Phó viện trưởng, chúng tôi không biết làm thế nào, máu trong người cô ấy sắp chảy cạn…”

Sản phụ nằm giường số ba tám chính là Hương Lan.

“Hương Lan…” Lâm Sỹ Diên nhắm mắt lại, ông thực sự không dám nghĩ tiếp.

“Phó viện trưởng, xin hãy mau quyết định! Nếu không không kịp mất, máu chảy thêm nữa là không cầm nổi đâu!”

Đúng lúc này, hai túi máu cuối cùng từ trạm máu được chuyển tới bên phòng đẻ, tất cả bác sĩ và y tá đều căng thẳng chờ đợi quyết định của Lâm Sỹ Diên. Ông đờ đẫn đến dại cả người, ngần ấy năm làm bác sĩ, chưa bao giờ ông gặp phải tình huống bắt buộc phải lựa chọn khó khăn đến thế. Ông đưa mắt ra hiệu tất cả bác sĩ vào trong phòng đẻ bàn bạc, bởi người nhà của hai sản phụ đều đang đứng ở lối đi bên ngoài phòng.

“Sỹ Diên!” Thư Bá Tiêu thấy vậy trong lòng đã hiểu ít nhiều, ông níu lấy cánh tay Lâm Sỹ Diên, nghẹn ngào: “Cho dù thế nào, anh nhất định phải cứu Hương Lan, anh biết cô ấy quan trọng thế nào với tôi, hai đứa trẻ vẫn còn nhỏ…”

Lâm Sỹ Diên dĩ nhiên biết Hương Lan quan trọng thế nào với Thư Bá Tiêu, cả với bản thân ông cũng thế. Yêu nhau bốn năm, cuối cùng nếu không phải vì người nhà phản đối, người đang đứng ngoài phòng đẻ nóng ruột chờ đợi lúc này sẽ là ông. Tuy rằng từ lúc chia tay đến khi cưới Thư Bá Tiêu, Hương Lan chưa hề có nửa lời oán thán, nhưng ông luôn cảm thấy mắc nợ cô. Ông cũng lờ mờ cảm thấy, Hương Lan không phải không có khúc mắc gì với ông, bằng chứng là từ khi kết hôn cô ấy chưa từng một mình xuất hiện trước mặt ông bao giờ.

Ông biết bản thân không thể thay đổi được gì. Thế nhưng đời này, chỉ cần có cơ hội, ông muốn bù đắp cho cô. Nếu như, nếu như hôm nay Hương Lan chết trong bệnh viện của ông, vậy thì sau này ông sẽ đối diện thế nào với Bá Tiêu và Thư Khang, Thư Tần? Điều đáng sợ hơn nữa là ông cũng không biết làm thế nào để đối diện với chính bản thân mình?

Nhưng…

Không có việc làm, trong nhà còn con nhỏ sáu tuổi, cuộc sống của cả gia đình lao động nghèo kia đều dựa vào tiền lương ba cọc ba đồng mà anh lái xe khách đường dài kiếm được. Thoáng nhìn là biết anh ta là người thật thà, bộ quần áo nhăn nhúm dán sát vào người, bóp chặt cánh tay, lộ ra đôi bàn tay to kệch, đôi mắt đỏ hoe vì lo lắng.

Mạng người nghèo cũng là một sinh mạng.

“Anh tên gì?” Lâm Sỹ Diên quay ra hỏi anh.

Vừa nghe Phó viện trưởng hỏi mình, anh lập tức bật khỏi băng ghế chờ, căng thẳng lắp bắp: “Tôi, tôi tên là Đỗ Dũng, vợ tôi là Chu Hiểu Lâm. Tôi… tôi còn một con trai tên…”

Lâm Sỹ Diên còn chưa kịp nghe anh nói hết câu đã vụt xoay người, đẩy cửa phòng sinh ra.

Ông sợ phải đối mặt với ánh mắt vô tội ấy.

“Ông Phó viện trưởng, van xin ông cứu lấy vợ tôi, không có cô ấy, gia đình chúng tôi tan nát mất!...” Đỗ Dũng đập tay vào cửa phòng bất lực, không kìm nổi dòng nước mắt cứ thế rơi ra trước mặt biết bao người.

...

Trong phòng đẻ.

Trên hai chiếc giường đặt ngang nhau, máu tưới đẫm giường.

Tất cả bác sĩ của bệnh viện, từ khoa nội, khoa ngoại cho đến khoa sản và khoa nhi đều tập trung trong phòng, căng thẳng chờ nghe chỉ thị của Lâm Sỹ Diên, hai túi máu còn lại cuối cùng này sẽ được truyền cho ai.

“Dùng sức, dùng sức nữa đi, sắp ra rồi!”

Sản phụ giường số mười quả thực rất kiên cường, cố nghiến chặt răng, môi đã bật máu cũng không thét tiếng nào, lúc đau không thể chịu được cũng chỉ khẽ kêu mấy tiếng. Bác sĩ đỡ đẻ và y tá đều đang vây quanh cô, chốc chốc lại có người giúp cô lau mồ hôi trên trán. Lâm Sỹ Diên ngạc nhiên nhận ra, cô cũng là một phụ nữ rất xinh đẹp, khuôn mặt thanh tú, cho dù đã mất nhiều máu, da mặt trắng ngần vẫn mịn màng dễ coi. Hiển nhiên, cô cũng đã thấy Phó viện trưởng, biết rằng ông ấy chính là người có quyền lớn nhất ở đây, không nói ra lời, cô nhìn ông mỉm cười, nụ cười tươi như hoa thoáng hiện ra trên khóe môi trắng bợt của cô chẳng khác nào một đòn mạnh giáng vào Lâm Sỹ Diên, cô dường như đang nói: “Cứu tôi, cứu con tôi với…”

Lâm Sỹ Diên bất ngờ toàn thân run bần bật, ông vội quay mặt đi, nhanh chóng bước tới bên giường Hương Lan. Hương Lan đáng thương lúc này đã bất tỉnh, máu đã thấm đẫm ga trải giường.

“Phó viện trưởng!”

“Phó viện trưởng!”

Các bác sĩ đều sốt ruột gọi ông.

Lâm Sỹ Diên yếu ớt nhìn sang giường số mười.

Bác sĩ đang cầm túi máu tưởng rằng đó là ám thị của Phó viện trưởng, hấp tấp treo túi máu lên giá truyền bên cạnh giường số mười. “Đợi đã!” Lâm Sỹ Diên đột nhiên hất tay…

Mọi ánh mắt đổ dồn vào ông.

Đã đến lúc quyết định, dù là sai cũng chỉ có thể tiếp tục sai. Có dùng sự cắn rứt cả đời để tế niệm cho lỗi lầm này cũng là chuyện không thể nào đừng được.

“Cho… cho giường số ba tám, cô ấy đã hôn mê rồi…” Giọng Lâm Sỹ Diên khản đặc đi, ngay đến bản thân ông cũng không nghe rõ, mỗi lời nói ra như một con dao cứa vào cổ họng.

Bác sĩ trực tiếp đỡ đẻ bên giường số mười lập tức phản đối: “Phó viện trưởng, đứa trẻ sắp ra rồi!”

“Nếu như… đã sắp ra rồi thì có lẽ không còn gì đáng ngại, giường số ba tám sắp không xong rồi, cứu được người nào thì cố cứu vậy thôi…” Lâm Sỹ Diên ép mình bình tĩnh.

“Phó viện trưởng! Chuyện này…” Bác sĩ Bạch Ngọc Trân, người đỡ đẻ bên giường số mười đã hành nghề nửa đời người cũng không thể nào đối diện với chuyện một sinh mệnh sắp chào đời lại có khả năng chết yểu, thoáng chốc nước mắt bà trào ra.

“Nghe chỉ thị của Phó viện trưởng! Cứu được người nào hay người đó!” Ông Lương chủ nhiệm khoa sản kéo dài mặt, trừng mắt nhìn Bạch Ngọc Trân.

Thật ra lúc ấy, nếu Bạch Ngọc Trân kiên trì thêm một chút, có lẽ Lâm Sỹ Diên sẽ thay đổi quyết định, vì khi ánh mắt của ông đúng lúc chạm tới giường số mười, người sản phụ yếu ớt ấy dường như cũng mơ hồ nghe thấy chỉ thị của ông. Cô tuyệt vọng nhìn ông, ánh mắt ngây dại đầy những buồn thương ai oán, giống như nỗi tuyệt vọng thê lương của một con mèo cái đang đối diện với cái chết lúc người ta dìm nó trong chậu nước, khiến người ta không tài nào nhìn thẳng vào... Toàn thân Lâm Sỹ Diên bắt đầu chao đảo.

Thế nhưng Bạch Ngọc Trân không thể kiên trì, bởi bà biết trong cái sản phòng này không có chỗ cho bà lên tiếng. Dù cả đời cần mẫn chăm chỉ, bà cũng chỉ là một bác sĩ đỡ đẻ không hơn không kém. Dù Phó viện trưởng có nghe lời bà mà thay đổi ý định đi chăng nữa, nhưng nếu sản phụ giường số ba tám chết, sau này trong bệnh viện chắc chắn bà cũng không có ngày nào sống yên ổn, Phó viện trưởng sẽ không làm khó bà, nhưng đám nịnh bợ cong đuôi suốt ngày chạy theo ông lẽ nào lại bỏ qua cơ hội ấy?

Con người ai cũng có tính ích kỉ. Phó viện trưởng chẳng phải cũng đang ích kỉ hay sao?

Ngay cả Phó viện trưởng cũng ích kỉ như vậy thì một bác sĩ đỡ đẻ quèn như bà có đường hoàng đĩnh đạc thì cũng ích gì?

Túi máu cuối cùng đã được treo lên giá truyền phía Hương Lan.

Một giờ sau, đứa con của Hương Lan ra đời. Đó là một bé gái, cả người nó đỏ hỏn trông vô cùng đáng yêu. Tất cả bác sĩ và y tá đều bao quanh đó nói cười vui vẻ.

Lâm Sỹ Diên tự tay bế đứa bé, không kìm được những giọt nước mắt vui mừng.

So với hai đứa con trước của Hương Lan, đứa bé có phần giống mẹ hơn, mới sinh nhưng làn da đã mịn màng, đôi mày sắc nét đẹp như tranh vẽ, đôi mắt đen láy sáng ngời chớp như thể đang quan sát thế giới mới đầy lạ lẫm. Điều ngạc nhiên là đứa bé này khi sinh ra không hề khóc, y tá phải tét vào mông mấy cái mới bắt đầu oe oe vài tiếng. Lâm Sỹ Diên ngắm nhìn đứa bé trong lòng mình, nó vẫn không khóc, ngược lại còn nhoẻn miệng cười. Đứa trẻ vừa được sinh ra sao đã biết cười, ai nấy cũng đều trầm trồ, lấy làm thích thú.

Nghĩ ra, nó vẫn có thể vui vì bản thân đã bình an đến với thế giới này.

Nhưng…

“Không hay rồi, giường số mười đã ngừng thở!” Tiếng nói thất thanh phát ra từ phía giường bên cạnh, phá tan niềm vui ngắn ngủi của mọi người. Lâm Sỹ Diên sững người, cảm giác như bản thân vừa bị đâm một nhát từ phía đằng sau lưng. Nỗi đau tái buốt cõi lòng, khiến ông không còn sức để xoay người lại.

Đôi mắt người phụ nữ ấy mở to ai oán. Máu mất quá nhiều khiến gương mặt cô bợt đi như một tờ giấy trắng, đôi tay cô thõng xuống, cả người nằm bất động trên giường giống như đang ngủ nhưng nét mặt vẫn rất đỗi an lành. Giống như số phận của mẹ mình, đứa trẻ vừa mới chào đời cũng nằm yên lặng. Đó cũng là một bé gái, bị ngạt thở do ở trong cơ thể mẹ quá lâu nên đã sớm ngừng thở. Các bác sĩ đã dùng đủ mọi cách, kể cả kích nhịp tim thế nào đứa trẻ cũng không khóc lấy một tiếng, nó cũng ngoan cường giống mẹ…

Đã chứng kiến quá nhiều cảnh sống chết trong bệnh viện là thế nhưng Bạch Ngọc Trân vẫn không thể gồng mình chịu đựng cảnh tượng thương tâm ấy. Đó là đứa bé bà vừa tự tay đỡ đón. Chỉ một giờ trước hơn nửa người của nó đã ra ngoài, chỉ còn lại phần đầu trong cơ thể mẹ, đôi bàn tay, bàn chân nhỏ bé của nó vẫn còn ấm nóng, làn da nó rất mềm mại. Đúng thật rằng, bà chưa từng chạm vào làn da nào mềm mại đến vậy. Thế nhưng vì người mẹ bỗng nhiên bị ngừng truyền máu, cơ thể không đủ dưỡng khí, đứa trẻ còn chưa kịp mở mắt nhìn thế giới thì tim đã ngừng đập, tay chân ấm nóng vừa mới đây thôi chớp mắt đã lạnh băng, làn da cũng vì thế không còn mềm mại, chạm vào chỉ còn cảm giác như chạm vào một bức tượng sáp.

Bạch Ngọc Trân bế đứa bé lên, cả người phát run. Bầu không khí trong phòng đột nhiên yên ắng đến ngạt thở. Tiếp đó, những tiếng thút thít bắt đầu bật lên.

Các bác sĩ và y tá nữ là những người đầu tiên rơi lệ, cánh đàn ông ai nấy mắt cũng đỏ hoe.

Bạch Ngọc Trân bế đứa bé đến gần Lâm Sỹ Diên, giơ cao lên trước mặt ông, nhấn mạnh từng lời: “Phó viện trưởng, ông nhìn thử đứa bé này đi, hãy nhìn đi, nó đáng yêu nhường nào…”

“Bạch Ngọc Trân!” Chủ nhiệm Lương thấy thế giận dữ quát lớn.

“Tôi dám đảm bảo, cả đời này rồi ông sẽ phải hối hận! Cả đời này ông sẽ không quên được chuyện ngày hôm nay!” Bạch Ngọc Trân khóc không thành tiếng, nhìn vị Phó viện trưởng mà thường ngày bà vô cùng kính trọng. Trong lòng bà khi ấy không có sự oán hận, chỉ là nỗi buồn thương, “Tôi cũng phải buồn thay cho ông, ông không nên như vậy, Phó viện trưởng!”

“Bạch Ngọc Trân, cô có thôi đi không!” Chủ nhiệm Lương xông lên trước, kéo bà đi.

“Tôi xin từ chức, từ ngày mai, không, ngay ngày hôm nay, tôi từ chức! Tôi thật không xứng là một bác sĩ!” Bạch Ngọc Trân khẳng khái đầy quyết đoán, buồn bã xoay lưng, bà cẩn thận lau sạch sẽ khắp người đứa trẻ xấu số, sau đó nhẹ nhàng bế tới bên sản phụ giường số mười.

“Xin lỗi, tôi không thể cứu hai người, nếu cô có hận thì hãy hận tôi đây. Kiếp sau đầu thai hãy nhớ nhất định phải đầu thai vào nhà có tiền, người nghèo mạng hèn, không thể oán trách ai được…” Bà nói với người phụ nữ ấy.

Dứt lời, bà loạng choạng cất bước rời khỏi phòng. Ra đến cửa phòng bà còn quay đầu lại, nhìn Lâm Sỹ Diên nói: “Rồi ông sẽ hối hận.”

Lúc đó, Lâm Sỹ Diên thấy như đang có ngàn vạn mũi kim xuyên thấu tim mình.

Đúng vậy, ông sẽ hối hận, ông đã hối hận. Tuy rằng cứu Hương Lan cũng là tận hết thiên chức của một bác sĩ, nhưng mạng sống của Hương Lan và đứa con cô lại được đánh đổi bởi mạng sống của mẹ con sản phụ kia. Đích thân ông đã ra quyết định, rút túi máu từ giường số mười sang giường số ba tám, lấy cơ hội sống của mẹ con sản phụ nghèo không quen biết đem đến cho Hương Lan, hành động ích kỉ ấy đến nay vẫn khiến Lâm Sỹ Diên không ngày nào có thể tha thứ cho mình, nó đã trở thành nỗi ám ảnh suốt cuôc đời ông không gì xóa nổi.

“Phó viện trưởng, xin đừng tự trách mình. Dù sao cũng chỉ có thể cứu được một người…” Chủ nhiệm Lương lên tiếng.

“Đúng vậy, không còn cách nào khác...”

“Chẳng ai muốn như vậy cả...”

“…”

Lâm Sỹ Diên mệt mỏi xua tay ra hiệu mọi người yên lặng, ánh mắt đờ đẫn nhìn quanh một lượt, cuối cùng dừng lại phía sản phụ giường số mười vừa được trùm vải trắng lên, giọng thều thào khản đặc: “Miễn tất cả chi phí của họ, bồi thường an ủi gấp ba, xử lý như chuyện ngoài ý muốn khi chữa trị.”

Không ai có ý kiến gì. Đúng lúc ấy…

“Mẹ nó ơi!” Đỗ Dũng ở ngoài phòng sinh hiển nhiên đã nghe được tin dữ, loạng choạng lao vào phòng…

***

Một tháng sau, Đỗ Dũng chết trong một tai nạn giao thông do lái xe không tập trung.

Đứa con trai mới sáu tuổi tên Kỳ Kỳ của anh trong một đêm biến thành trẻ mồ côi.

Đỗ Dũng được khiêng tới bệnh viện vẫn còn chưa tắt thở, những bác sĩ trực tiếp cấp cứu ngay lập tức kinh hãi vì nhận ra anh. Trong viện này không ai không biết Đỗ Dũng, sau khi vợ anh đẻ khó rồi qua đời, anh đã túm lấy bác sĩ mà đánh, còn tuyên bố sẽ kiện, đồng thời còn để thi thể vợ ở ngay cổng bệnh viện ba ngày liền khiến chuyện càng lúc càng loạn, nếu không phải ngành có liên quan phía trên can thiệp, có lẽ chuyện này không thể thu xếp được.

Khi thi thể của Đỗ Dũng được chuyển tới nhà xác, đứa con còn chưa hiểu chuyện của anh đang ở bên vườn hoa bệnh viện chơi với những đứa trẻ khác. Chuyện người lớn, với độ tuổi của nó dĩ nhiên không thể hiểu. Có điều, đứa trẻ đang chơi đùa cùng nó lại chính là con trai lớn của Phó viện trưởng Lâm, tên Lâm Nhiên. Hai đứa trẻ thích thú chơi bắn bi trên thảm cỏ vườn hoa.

“Cậu tên gì?” Lâm Nhiên hỏi nó.

“Tớ tên Kỳ Kỳ.”

“Kỳ Kỳ!” Lâm Nhiên đưa hết số bi trong tay mình cho nó, phủi đất dính trên quần, nói: “Tớ phải về rồi, cậu không về nhà ăn cơm sao?”

Đỗ Trường Phong, lúc đó còn gọi là Kỳ Kỳ đáng thương lắc đầu: “Tớ không có chỗ ăn cơm, bố tớ chết rồi!”

Lâm Nhiên kinh ngạc: “Bố cậu chết rồi?”

Kỳ Kỳ gật đầu.

“Cậu không buồn sao?” Ý của Lâm Nhiên là, bố đã chết, Kỳ Kỳ sao vẫn còn tâm trí chơi với cậu.

Kỳ Kỳ vẻ mặt như không hề có chuyện gì, lắc đầu đáp: “Không buồn.”

“Sao lại thế?”

“Bố tớ không phải chết thật. Vì khi mẹ tớ chết, bố tớ nói mẹ đi xa thôi, tức là đi đến một nơi rất xa, nhất định sẽ còn trở về.”

“Mẹ cậu cũng đi xa rồi sao?”

“Ừ.” Cậu bé ngây ngô trả lời. “Bố tớ lái xe khách, thường phải đi xa, lần nào đi xa cũng phải đến lâu sau tớ mới gặp được. Lần này đi, không biết lại phải đợi đến khi nào.”

Lâm Nhiên lớn hơn nó ba tuổi, dĩ nhiên hiểu chuyện hơn, cậu nhìn nó đầy thương xót: “Bố cậu mà không về nữa thì làm thế nào? Cậu sẽ ăn cơm ở đâu?” Bị hỏi bất ngờ, Kỳ Kỳ ngớ người vội sờ vào bụng mình. Đúng vậy, cả ngày chưa ăn gì, Kỳ Kỳ buồn thiu nói: “Tớ đói rồi, nhưng không có chỗ nào ăn cơm.”

Lâm Nhiên chẳng nghĩ ngợi gì, kéo tay nó: “Vậy thì đến nhà tớ ăn. Hôm nay đúng ngày nhà tớ có khách, nhiều đồ ăn ngon lắm, ăn no rồi chúng mình lại chơi tiếp.”

Nhà Lâm Nhiên ở trong một biệt thự gần bệnh viện. Hai chú nhóc nhảy tường vào, rồi nhẹ nhàng luồn vào nhà bếp từ phía sau. Sau khi mó được đồ ăn, Lâm Nhiên lén đưa Kỳ Kỳ lên phòng mình ở tầng trên.

“Cậu ấy lại có phòng riêng!” Điều ấy khiến một chú nhóc từ khi sinh ra đã ở trong khu ổ chuột tồi tàn như Kỳ Kỳ giật mình sửng sốt.

Vừa vào đến phòng Lâm Nhiên, Kỳ Kỳ đã ngấu nghiến ăn, chừng như cả đời này cậu chưa từng được ăn thứ gì ngon miệng như vậy. Vừa ăn xong, em trai của Lâm Nhiên tên Lâm Hy bước vào, thấy người bạn mới của anh cũng rất hí hửng, muốn kéo cả hai sang phòng mình để thăm em gái. Thì ra hôm đó là đầy tháng con gái của Thư Bá Tiêu, hai vợ chồng bế con đến nhà bạn Lâm Sỹ Diên chơi. Lúc ấy, người lớn ở dưới nhà nói chuyện, để bảo mẫu bế đứa bé đang ngủ lên phòng Lâm Hy cho yên tĩnh.

“Các anh xem, em gái có xinh không?” Lâm Hy chỉ vào bé gái đang say giấc hỏi. Lâm Nhiên đến gần giường, chăm chú ngắm nhìn. “Đúng là xinh quá, lông mi dài thật đấy.” Nói rồi cậu thúc nhẹ vào sườn Kỳ Kỳ, “Kỳ Kỳ, cậu nói có đáng yêu không?”

Kỳ Kỳ đang mải nhai đầy một miệng bánh vừng, hoàn toàn không để ý. Lâm Nhiên thấylạ liền hỏi, “Cậu không thích em gái sao? Sao lại đanh mặt thế?” Kỳ Kỳ cố nuốt cho trôi rồi mới đáp: “Tớ cũng không biết, chỉ thấy không thích thôi.” Kỳ thực quả như vậy, nó đang nói thật, hiện giờ trong đầu chỉ toàn là đồ ăn ngon, đâu còn tâm trí mà để ý xem bé gái ấy có dễ thương hay không.

Lâm Sỹ Diên thấy trên tầng ồn ào liền ra hiệu cho mọi người cứ tiếp tục trò chuyện còn ông và Thư Bá Tiêu lên phòng Lâm Hy. Biết con trai Lâm Nhiên đưa bạn mới về nhà chơi ông không hề phật lòng. Đợi bố ngồi xuống giường xong, Lâm Nhiên cũng tự nhiên ngồi vào đùi bố, rồi bá cổ ông năn nỉ: “Bố ơi, chúng ta giữ bạn ấy lại nhé, bố bạn ấy vừa chết rồi, không có chỗ nào ăn, để cậu ấy ở nhà mình ăn cơm, bố nhé?”

Lâm Sỹ Diên sững người: “Bố bạn ấy chết rồi?”

“Vâng, chết hôm nay ạ.”

“Bố cháu tên là gì?” Lâm Sỹ Diên nhìn Kỳ Kỳ.

“Bố cháu tên Đỗ Dũng.” Kỳ Kỳ nghiêng đầu, dường như lòng kiêu hãnh dâng lên, nó còn đưa lời giải thích thêm: “Bố cháu không phải chết thật đâu, bố chỉ đi xa thôi,giống mẹ cháu ấy. Rồi bố mẹ cháu sẽ về, chỉ là… chỉ là tạm thời cháu không có chỗ ăn cơm thôi.”

Nghe tới đó, cả Lâm Sỹ Diên và Thư Bá Tiêu đều sửng sốt quay lại nhìn nhau.

“Đúng là ý trời!” Lâm Sỹ Diên ngẩng mặt, phút chốc bỗng nghẹn ngào không nói thêm được lời nào. Thư Bá Tiêu ở bên cạnh khẽ kéo Kỳ Kỳ lại phía mình: “Con à, đến nhà chúng ta ăn cơm nhé, nhà bác có nhiều đồ ăn ngon lắm.”

“Để cậu bé ở đây đi!” Lâm Sỹ Diên hạ giọng, quả quyết nói. “Là tôi nợ nhà cậu bé, nên để tôi trả, nhất định tôi phải hoàn trả!” Nói rồi ông kéo Kỳ Kỳ từ trong tay Thư Bá Tiêu lại phía mình. “Kỳ Kỳ, từ giờ về sau, đây chính là nhà con. Lâm Nhiên là anh trai con, Lâm Hy là em trai con, các con hãy yêu thương nhau, thân thiết như anh em ruột thịt, được không?”

Kỳ Kỳ còn chưa kịp gật đầu, Lâm Nhiên và Lâm Hy đã hớn hở nhảy cẫng lên: “A, chúng ta là người một nhà rồi! Kỳ Kỳ, chúng ta là người một nhà rồi…”

****************************

CHƯƠNG 1 - Gặp Gỡ

Pari mùa thu năm 1993.

Nhâm nhi cà phê ngoài trời bên bờ sông Seine là điều luôn khiến Lâm Nhiên thích thú. Những cây phong cổ thụ to lớn bên bờ sông như che kín cả mặt trời, dưới bóng râm mát đó một hàng ghế được xếp chạy dọc men theo dòng sông xanh biếc trông thật trữ tình. Những tấm khăn trải bàn họa tiết trắng sọc xanh thi thoảng bị gió thổi tốc lên, chẳng khác nào những ngọn cờ đang đón gió. Gió làm cho những chiếc lá phong thi thoảng lại rơi la đà khắp tầm mắt, có lúc không để ý, chắc hẳn sẽ có vài chiếc lá phong đỏ rực lẫn vào tận trong tách cà phê của thực khách ngồi đây. Sự lãng mạn đầy màu sắc và chất thơ quyến rũ của Pari dường như ngấm vào cả từng chiếc lá phong này, ngay cả mùi hương đậm đà của cà phê cũng phảng phất hương vị mùa thu thơ mộng ấy. Dường như, thành phố nào có một dòng sông chảy qua đều rất nên thơ, bởi nó mang đến cho thành phố biết bao ý tưởng lãng mạn. Không có sông Seine, có lẽ Pari sẽ ngừng trệ lại, thậm chí mất đi sức sống, không thể trở thành một thành phố của thi ca, của nghệ thuật và lãng mạn như thế này…

Đối với Lâm Nhiên mà nói, điều hấp dẫn đối với anh ở Pari chính là nét trữ tình của sông Seine, con sông trải dài xa tít như một dải lụa xanh phát ra từng tia sáng lấp lánh. Trong mắt anh, dòng sông như không đành lòng rời khỏi thành phố xinh đẹp này, nên cứ mãi vòng quanh trong lòng Pari, tạo thành hình chữ “Z” quyến luyến chảy về tây, dường như lưu luyến, quấn quýt không nỡ rời, cuối cùng mới phải dứt lòng rời khỏi Pari, chảy ra Đại Tây Dương. Còn những tòa kiến trúc hùng vĩ ở hai bên bờ sông chẳng khác nào những hạt ngọc sáng lòa được khéo léo xâu chuỗi lại với nhau, chúng đều là báu vật hiếm có trên đời, là những tác phẩm có khả năng làm chấn động thế giới. Nhâm nhi cà phê ở nơi đây, ngay chỗ anh đang đứng, những cảnh đẹp mĩ lệ nhất của Pari chính là nhà thờ Đức Mẹ Pari hùng vĩ tráng lệ, tháp Eiffel, cung điện Louvre hay bảo tàng Othello theo mẫu nhà xe lửa hoàn toàn bằng đá, còn có viện quân nhân vinh quang nơi an táng Napoléon… tất cả đều được thu gọn trong tầm mắt.

Đứng từ xa ngắm về sông Seine sẽ chỉ thấy nơi đây tấp nập những du thuyền đầy màu sắc. Đêm đến, được ngồi trên du thuyền ngắm màn đêm trên sông là niềm vui và là điều lãng mạn nhất ở Pari. Mỗi khi có thời gian, Lâm Nhiên thường mời một số bạn thân ra đây cùng với mình, cùng ngồi trên thuyền, cùng uống rượu, say sưa nói chuyện đến tận sớm hôm sau. Năm đầu bố anh phản đối việc anh đến Pari học chuyên sâu là bởi sợ anh mải chơi mà nản lòng. Đúng là anh có chút ham chơi, nhưng từ trước tới giờ chưa khi nào anh tỏ ra nhụt chí. Theo học ở học viện âm nhạc Pari lẫy lừng suốt bốn năm nhưng không đợi đến khi tốt nghiệp, tiếng tăm của anh đã nổi khắm châu Âu. Dĩ nhiên, trước khi đến Pari anh đã rất nổi danh, mười bảy tuổi đã biểu diễn ở nhà hát Opera Hoàng gia Vienna – đó là trải nghiệm chỉ có ở những người phi thường. Lí do khiến anh quyết định chọn Pari là điểm đến chính là lời mời hấp dẫn của nghệ sĩ đào tạo piano nổi tiếng khắp thế giới, bà Olivia. Bà là một người thực sự tài ba, những học trò được bà dìu dắt và thu nạp phần lớn đều trở thành những nghệ sĩ âm nhạc tên tuổi. Tuy nhiên, bà cũng không phải là người dễ dàng thu nạp học trò, đặc việt đối với những học trò là người phương Đông.

Dĩ nhiên, chuyện gì cũng có nguyên do của nó. Nghe nói trước Lâm Nhiên có một người cũng từng học chuyên sâu trong học viện âm nhạc Pari, các giáo sư trong trường đều trầm trồ khen tặng anh có bàn tay của thượng đế, tiếng nhạc mà anh đánh khiến chúa Jesus cũng phải trầm trồ hồi sinh. Bà Olivia sau khi nghe anh biểu diễn đã rất tán thưởng, nhiều lần công khai bày tỏ ý muốn nhận anh làm học trò. Không ngờ người này lại ngông cuồng quá thể, không những từ chối thiện ý của bà mà còn buông ra một câu hỗn láo: “Để tôi dạy bà ta còn nghe được”, Ý là anh có thể dạy lại Olivia. Chuyện đến tai Oliva khiến bà cả thẹn mà tức giận, thề rằng sẽ không bao giờ thu nạp một học trò tới từ phương Đông nữa. Kẻ ngông cuồng đó lại đến từ Trung Quốc, Lâm Nhiên vì thế nhiều lần bị bà từ chối, đóng cửa không tiếp khách. Nhưng lẽ nào anh lại dễ dàng từ bỏ vậy? Anh nhờ người mang đàn piano đến dưới nhà bà Olivia. Sau khi chơi được một khúc nhạc, rèm cửa sổ đang khép chặt của bà bỗng được kéo ra, sau đó anh được bà mời lên nhà uống cà phê. Sau buổi đó, Lâm Nhiên chính thức trở thành học trò của bà.

Sau khi được bà Olivia tiếp nhận, Lâm Nhiên mới biết đến sự nghiêm khắc của bà thực không phải hư danh. Lúc mắng người khác cũng có thể khiến họ xấu hổ mà chui xuống địa ngục. Nếu chẳng phải có nghị lực hơn người cùng sự nhẫn nhục đáng khâm phục thì Lâm Nhiên không thể có ngày hôm nay. Cũng phải nói thêm rằng ngay từ hồi nhỏ, lúc mới chơi đàn anh cũng đã chịu không ít khổ cực, ý chí cũng sắt đá, thà chết cũng không chịu khuất phục trước bản nhạc dù khó đến mức nào, cũng từ đó mà tài năng của anh được rèn giũa và bồi đắp. Học bổng toàn phần cũng như các giải thưởng quốc tế lớn trong bốn năm du học đều lọt vào tay anh. Xuất thân từ một gia đình quyền quý, mấy đồng học bổng Lâm Nhiên không thiếu, chẳng qua đó là biểu hiện cho sự cầu tiến của anh. Ngay từ nhỏ bố anh đã nhắc nhở anh và các em, cho dù ở nơi nào hay bất cứ lúc nào cũng không được phép quên mình là người Trung Quốc, càng không thể để bọn người Tây xem thường khinh miệt.

Bố anh là người có tình yêu đối với quê hương rất sâu đậm. Mười mấy năm sống trên đất Mỹ, cuối cùng ông vẫn chọn quê hương là nơi an dưỡng tuổi già. Hiện giờ, sự nghiệp của gia tộc cơ bản đều giao cho con trai thứ Lâm Hy lo liệu. Gia nghiệp quá lớn, bao gồm một chuỗi các bệnh viện trải khắp Canada, Nhật Bản, Hồng Kông… Hồi trước bố anh lấy danh nghĩa Hoa kiều về nước đầu tư xây dựng một bệnh viện lớn, hiện giờ tuổi ông cũng đã cao, làm việc cần mẫn đã qua nửa đời người nên giờ rút về phía sau cũng là tâm nguyện bao năm của ông. Nếu không phải thân làm con cả như Lâm Nhiên lại si mê đàn sáo, bố đã muốn anh là người kế thừa, gánh vác cơ nghiệp y khoa học truyền thống của gia đình. Nhưng lý tưởng của anh không ở nơi đó. Bố anh cũng hết cách, lại rất thương yêu anh nên đành chọn người thừa kế khác. Thật ra ngoài Lâm Nhiên và Lâm Hy, nhà họ lâm còn có một người con nuôi tên Sam, từ nhỏ cũng học violon, lại rất có năng khiếu, chỉ có điều Sam lại thường xuyên gây chuyện. Bố anh bất đắc dĩ đã phải tống cổ Sam về nước bốn năm trước, để anh trai Lâm Duy của mình đang làm luật sư trị cái thói bắt hảo đó của con.

Trong nhà họ Lâm, thân thế của Sam luôn là điều cấm kỵ lớn. Trừ khi bố anh nói, những người còn lại đều không được phép nhắc tới. Ngay từ nhỏ bố đã hết lòng chiều chuộng Sam, tính cách phóng túng của Sam hiện giờ phần lớn là do xưa kia ông đã quá cưng chiều. Khi bố anh muốn uốn nắn lại thì Sam đã ở tuổi trưởng thành, thành ra những lời bố anh nói với Sam khi đó đều như gió thoáng bên tai, không mảy mai tác dụng.

Bốn năm trước, Lâm Nhiên đưa Sam và Lâm Hy về nước. Sau khi máy bay đáp xuống sân bay Thượng Hải, ba anh em chuyển qua ngồi tàu hỏa về quê nhà Ly Thành, còn chưa về đến nhà, Sam đã gây chuyện đánh nhau với người ta ngay ở ga, kết quả Sam bị bắt đưa thẳng về đồn, Lâm Nhiên phải gọi điện cho bác Lâm Duy, nhờ bác đi vào bảo lãnh. Khi Lâm Duy nghe tin họ ở trong đồn, cả ngày trời ông chỉ thốt ra một câu: “Bọn nhóc thối tha này, chúng mày cũng thật biết lợi dụng bác chúng mày. Cả khi bác là luật sư thì chúng mày cũng không thể ngông cuồng thế được.”

Bác Lâm Duy của Lâm Nhiên cũng không theo ngành y, ông là một luật sư rất có tiếng ở địa phương. Ba anh em khi vừa về nước đã qua nhà bác ở nhờ bởi căn nhà lớn ở phố Tử Đằng của nhà họ Lâm hiện đang được tu sửa lại. Sau khi ở nhà bác một thời gian, Sam la lối bảo không được tự do, rồi kéo Lâm Nhiên và Lâm Hy về căn nhà cũ trên phố Thúy Hà ở. Đây là một căn nhà nhỏ khá riêng biệt, cũng thuộc quyền sở hữu của nhà họ Lâm, tuy cũ kĩ nhưng được cái sống ở đây rất tự do, theo như lời Sam nói thì: “Làm xằng, làm bậy, làm bừa cũng không sợ bị ai quản thúc”.

“Sống với bác lúc nào cũng thấy mình như là phạm nhân ấy”, nguyên văn lời Sam nói như vậy. Do Lâm Duy là luật sư nên khi nói chuyện giọng điệu của ông cũng khó tránh khỏi bệnh nghề nghiệp, lúc nào cũng như khẩu người khác, đặc biệt là đôi mắt, khi nói chuyện, ánh mắt ông vô cùng sắc bén, khiến kẻ hay làm chuyện xấu như Sam lúc nào cũng nơm nớp chột dạ. Lâm Hy vẫn hay trêu đùa Sam: “Anh, anh phải cẩn thận chút đấy, đừng để bác chém ngang người.”

Kể cũng lạ, một kẻ không sợ trời cũng chẳng sợ đất như Sam lại sợ bác Lâm Duy. Bất cứ lời nói dối nào của anh, trong vòng ba câu đã bị bác Lâm Duy lật tẩy, vì vậy Sam ghét nhất phải qua thăm bác, có lần anh nói với Lâm Nhiên: “Bác có trị em thế nào cũng được nhưng đừng có nhốt em lại. Như thế thà để em chết đi còn hơn.”

Một người sống tự do phóng khoáng, như con gió phiêu lãng khắp gầm trời như Sam sao có thể chịu đựng được cảnh giam cầm?

Thế nhưng bốn năm sau đó, khi Lâm Nhiên nhớ lại câu nói này của em trai, anh bất giác chỉ có thể than rằng mọi chuyện trên đời đều có số cả. Năm thứ hai về nước, Sam đã bị nhốt lại, không phải trong lao tù mà là ở một nơi còn đáng sợ hơn cả chốn lao tù. Cuối cùng Sam cũng phải trả giá cho những bồng bột tuổi trẻ của mình. Anh gây họa trong một lần xô xát với bạn, chính bác Lâm Duy là người bào chữa cho anh thành vô tội, và cũng chính bác đã đưa anh vào nơi đáng sợ ấy.

Cuộc sống của Lâm Nhiên cũng từ đó mà rơi xuống đáy vực. Tuy danh tiếng nghệ sĩ của anh không ngừng bay cao nhưng bản thân anh lúc nào cũng luôn cảm thấy nỗi cô đơn trống trải vây quanh mình. Mỗi lần nghĩ tới cảnh em trai phóng khoáng của mình mất đi tự do anh lại cảm thấy nhói lòng.

“Anh, giúp em hỏi bác, rốt cuộc bác nhốt em đến bao giờ?” Sam thường nói với anh những câu đó, đau khổ và tuyệt vọng. Mấy năm trời trôi qua, Sam đã luôn cầu xin anh giúp mình như vậy, nhưng rốt cuộc vẫn bị nhốt. Đã có lúc Lâm Nhiên bật khóc, thậm chí ngay trước mặt em trai: “Sam, nếu có thể, anh bằng lòng dùng nửa đời còn lại của mình để đối lấy tự do cho em..”

Bởi tấm bi kịch này bắt nguồn từ Lâm Nhiên, nhưng người bị nhốt lại là Sam. Lâm Nhiên dằn vặt bản thân ghê gớm, anh luôn tự dày vò mình và hy vọng có cơ hội chuộc tội cho Sam, cũng chính là chuộc tội cho bản thân mình. Danh dự, địa vị anh đều không cần, anh chỉ mong có cơ hội để chuộc tội! Mấy năm nay anh sống không hề vui, cũng không dám nửa lời oán hận. Anh chỉ mơ hồ nhận thấy dường như đây chính là báo ứng. Lâm Nhiên thường nói với bạn thân của mình: “Đời này của tôi có khi còn ngắn ngủi hơn cả một bản nhạc, không đủ cho tôi chuộc tội, nên Sam vẫn bị nhốt…”

Lí do trở lại Pháp lần này của Lâm Nhiên là muốn mời người bạn cũ Cảnh Mặc Trì về nước, cùng anh tham gia biểu diễn nhạc ở quê nhà. Hai người đã hẹn nhau cà phê ở bờ trái sông Siene, đây cũng là nơi họ vẫn thường gặp nhau trong quá khứ. Bốn năm trước Lâm Nhiên về nước phát triển, còn Cảnh Mặc Trì vẫn ở lại bên Pháp, sự nghiệp còn đang ở đỉnh cao, lại vừa mới kết hôn. Người thường rất khó để gặp anh ta, nhưng với Lâm Nhiên lại khác, chẳng nói lời nào đã vội lao ngay tới điểm hẹn. Vừa gặp, Cảnh Mặc Trì đã đấm Lâm Nhiên mộ cái, cùng lời trách cứ: “Thằng nhóc này, nói bao nhiêu lần đến Pari nhất định sẽ gặp mà bây giờ mới ló mặt tới! Đúng là tên bội tín!”.

Cảnh Mặc Trí là ai? Chính là kẻ ngông cuồng đã từ chối làm học trò của bà Olivia.

Lâm Nhiên quen Mặc Trì từ năm thứ hai khi học ở Pari. Lúc đó anh đã nghe tiếng tăm Cảnh Mặc Trì từ lâu nhưng mãi chưa có duyên gặp mặt, một phần cho rằng Mặc Trì là người rất khó gần. Không ngờ trong một buổi party, một đám người được cho là lịch thiệp khi nhắc tới giới quyền chức các nước, một người Pháp trong số đó đã nói một câu khó nghe, đại ý người Trung Quốc đều là mọi rợ cả, chưa tiến hóa. Ở đó cũng không ít người Trung Quốc, thế là hai bên xảy ra to tiếng. Đột nhiên một chàng trai với phong thái lịch thiệp từ đầu vốn im lặng chẳng thèm cự lại câu nào, đĩnh đạc tiến lại gần người thanh niên Pháp nọ, đổ hết ly rượu vang đang cầm trên tay lên đầu tiên vừa có phát ngôn lỗ mãng kia, mỉm cười nói: “Ở Trung Quốc chúng tôi, cái này gọi là “dĩ độc trị độc”, anh thấy thế nào?”.

Trong lúc số đông vẫn còn đang kinh ngạc, chợt có tiếng vỗ tay vang lên, người vỗ tay chính là Lâm Nhiên! Anh là người mở màn, sau đó, tiếng vỗ tay vang lên khắp chốn, thoáng chốc đã áp đảo khí thế của nhóm người ngoại quốc trong đó có tên người Pháp kia, cho dù hắn có đang giận đến độ mắt bắn ra lửa cũng không dám ho he thêm một lời nào. Còn chàng thanh niên ấy nhìn Lâm Nhiên cười, vẻ mặt thản nhiên, anh đành đặt chiếc ly đã cạn rượu của mình xuống bàn gần đó một cách nho nhã, sau đó đường hoàng cất bước. Sau buổi gặp gỡ ấy, Lâm Nhiên mới biết anh ta chính là Cảnh Măc Trì!

Lâm Nhiên dĩ nhiên vô cùng sung bái với người anh khóa trước này, nhưng Mặc Trì là người vốn rất ghét bị gọi là “sư huynh”, thường khinh khỉnh nói: “Đừng cố kéo tôi vào quan hệ với cái trường này! Vào trường này là một sự sỉ nhục lớn với cả đời tôi”. Đương nhiên riêng với Lâm Nhiên, Mặc Trì lại có một cách nhìn khác: “Cậu cũng không tồi, cũng biết đấu tranh cho người Trung Quốc chúng ta.” Sau đó Lâm Nhiên mới biết, người này chỉ học ở học viện âm nhạc chưa đầy một năm đã nghỉ, nguyên nhân thì Lâm Nhiên chưa được biết nhưng vì hai người nói chuyện rất hợp ý nên đã nhanh chóng trở thành bạn chi giao. Đề tài mỗi cuộc nói chuyện của họ xoay quanh đủ thứ trên trời dưới biển, từ chuyện phụ nữ Pháp ngực to đến chuyện phụ nữ Ý chân dài… họ bàn tán không chút kiêng kỵ, nhưng tuyệt nhiên không nói gì về âm nhạc. Có lúc nào đó Lâm Nhiên vô tình nhắc tới, Cảnh Mặc Trì đã ngay lập tức chuyển sang đề tài khác, không nửa lời bàn thêm.

Cho dù như vậy, Cảnh Mặc Trì vẫn giữ trong lòng ơn tri ngộ với Lâm Nhiên. Được Mặc Trì tiến cử nên sau khi tốt nghiệp, Lâm Nhiên đã ký được hợp đồng với công ty băng đĩa nhạc xuyên quốc gia rất có tiếng. Công ty này nổi tiếng về lĩnh vực sản xuất các ấn phẩm nhạc cổ điển, Cảnh Mặc Trì là ngôi sao lớn của họ, những đĩa nhạc của anh được họ phát hành có doanh số bán ra với con số rất lớn cả ở châu Âu và châu Mỹ. Mấy năm không gặp, Cảnh Mặc Trì giờ đã kết thúc cuộc sống độc thân, Diệp Sa vợ anh cũng từng là học viên ở Học viện âm nhạc Pari, có tiếng là “mỹ nhân băng” bởi sự kiêu sa đến lạnh lùng của cô. Cô học khoa sáng tác, phần lớn những bản nhạc anh chơi đều do cô viết. Hai vợ chồng Cảnh Mặc Trì cũng có thể xem như duyên cầm sắt. Chuyện này khiến Lâm Nhiên cảm thấy khá bất ngờ, vì trước khi cưới, Cảnh Mặc Trì dù thế nào cũng không ưng Diệp Sa, anh nói chỉ coi cô như em gái. Bố mẹ hai nhà vốn có quan hệ tốt. Bà Thẩm Sơ Liên, mẹ của Cản Mặc Trì lúc còn trẻ vốn là một nghệ sĩ piano tài ba. Diệp Sa từ nhỏ đã là học sinh của bà, thế nên Cảnh Mặc Trì và Diệp Sa giống như đôi bạn thanh mai trúc mã. Nhưng anh lúc nào cũng né tránh cô, thậm chí có lần hẹn gặp Lâm Nhiên mà chỉ cần biết có Diệp Sa đi cùng, chắc chắn anh sẽ để Lâm Nhiên leo cây. Hai người giống như đang chơi trò trốn tìm, còn Lâm Nhiên bị kẹp ở giữa, nhiều khi anh cảm thấy rất khó xử. Anh chưa từng nghĩ rằng Cảnh Mặc Trì sau nhiều lần do dự, cuối cùng vẫn chọn Diệp Sa. Lâm Nhiên không nhịn được cười, trêu anh: “Thế nào, tôi nói không sai mà, anh với Diệp Sa là có duyên vợ chồng.”

Vừa nghe thấy Lâm Nhiên nhắc tới Diệp Sa, Cảnh Mặc Trì đã thộn mặt xuống, bực bội: “Tôi không có gì để nói với cô ấy.”

Nói rồi lại nhấc đùi châm thuốc hút, con mắt hờ hững lướt trên mặt sông, “Anh cũng biết đấy, tuy rằng từ nhỏ đã ở bên nhau, cô ây là học trò của mẹ tôi, nhưng tôi vẫn chỉ coi cô ấy như em gái”.

“Bạn thanh mai trúc mã không tốt sao? Biết hết tính cách của nhau rồi, lựa chọn của anh không sai đâu…”

“Anh không cảm thấy rất nhạt nhẽo sao? Tình yêu là thứ lãng mạn nhất, cũng là lãnh địa đòi hỏi sự mới mẻ nhất. Từ nhỏ đã quen nhau rồi, đôi bên hiểu rõ nhau rồi, tương lai còn phải sống cả đời với nhau nữa thì còn lấy đâu ra mới mẻ với cả lãng mạn? Anh không thấy điều đó rất khủng khiếp sao?” Cảnh Mặc Trì nói, lộ rõ vẻ mặt chán ngán.

“Vậy anh cưới cô ấy làm gì?” Lâm Nhiên lập tức hỏi vặn lại.”

“Một lời khó nói lắm!” Cảnh Mặc Trì xua tay lia lịa, ý như không muốn nói thêm về việc này, còn về chuyện Lâm Nhiên mời anh về nước cùng biểu diễn, dĩ nhiên anh vui vẻ nhận lời. Hơn ai hết, bản thân anh cũng muốn trở về cố hương thăm lại quê nhà sau nhiều năm không về. Cảnh Mặc Trì vốn là người Thượng Hải.

“Đúng rồi, nhà cậu ở đâu nhỉ?” Cảnh Mặc Trì đột nhiên hỏi Lâm Nhiên.

“Ly Thành, một thành phố nhỏ, rất có tiếng ở Giang Nam.”

“Có nghe qua, cách Thượng Hải không xa lắm.”

***

Ly Thành mười ba năm trước không lớn như bây giờ. Từ xưa đây chính là nơi tụ hội của các dòng lái buôn lớn, đặc biệt sau khi cải cách mở cửa, phần lớn những Hoa kiều sống ở nước ngoài khi về đều quyết định đầu tư phát triển cơ nghiệp ở đây. Kinh tế phát triển nhanh chóng đã khiến Ly Thành được ví như một “Hồng Kông” của Giang Nam.

Thành phố tập trung nhiều Hoa kiều giàu có nên cuộc sống nơi đây mang dáng dấp phương Tây. Những gia đình có thế lực và danh vọng trong thành phố cũng thi nhau phô trương cách tân, chỉ sợ mình không giống Tây, không được tây như nhà khác.

Mẹ của Thư Mạn, bà Tần Hương Lan cũng nằm trong số đó. Bố cô – Thư Bá Tiêu lúc đó là hiệu trưởng của Đại học Sư phạm Ly Thành. Mẹ cô đường đường là phu nhân của ông hiệu trưởng, thấy bản thân mình Tây hóa cũng không có gì là lạ, còn nghĩ ngay cả con gái cũng phải học theo cái “Tây” ấy. Anh trai Thư Khang là con trưởng, rất trọng học hành nên không nhắc, em gái Thư Duệ lúc đó còn nhỏ tạm thời cũng không bàn, nhưng chị cô, Thư Tần với tướng mạo xuất chúng, trí tuệ hơn người đã nhanh chóng trở thành mục tiêu để mẹ cô chèo kèo bồi dưỡng “tây hóa” như mình. Nào là cầm kì thi họa, lễ nghi, ba lê, những thứ gì có thể học mẹ cô đều cho Thư Tần học hết một lượt. Nhưng thứ Thư Tần bộc lộ tài năng nhất lại là chơi đàn piano. Bốn tuổi bắt đầu học, bảy tuổi biểu diễn trên sân khấu, tám tuổi đoạt giải toàn quốc, mười một tuổi đã được đặt cách vào trường trung học trực thuộc Học viện âm nhạc, cô có đủ tư cách trở thành viên ngọc minh châu trong tay bố mẹ. Có lẽ vì ánh sáng của Thư Tần quá chói lòa, khiến anh trai Thư Khang và hai em gái Thư Mạn, Thư Duệ của mình trở nên mờ nhạt trong suốt một thời gian dài, đặc biệt là Thư Mạn.

Dĩ nhiên, Thư Mạn không xuất sắc cũng là có lý do. Chẳng hạn như cô không lớn lên ở thành phố. Khi cô bốn tuổi, vì sức khỏe yếu, lại lắm bệnh tật nên được chuyển về sống cùng bà ngoại dưới quê. Khi Thư Mạn thành niên, cô luôn băn khoăn tại sao bố mẹ lại đưa cô về đó, có lẽ bố mẹ khi ấy đã không có hy vọng gì về cô nữa. Ai bảo cô chưa đủ tháng đã ra đời, hơn nữa, vừa ra đời đã biết cười, làm các bác sĩ đỡ đẻ đều giật bắn người. Điều khó hiểu hơn, hai tuổi cô mới biết đi, gần ba tuổi mới biết trò chuyện, rồi sau đó cả ngày ngơ ngác khiến Thư Bá Tiêu vất vả suốt ngày phải bế cô chạy tới chạy lui trong bệnh viện, thậm chí nhiều lúc ông nghi ngờ đứa trẻ này có phải bị mắc bệnh thiểu năng không.

Vậy nên Thư Mạn đoán, bố ban đầu biết rõ sức khỏe cô không tốt nên đưa cô về quê có lẽ là vì sợ cô đúng là một đứa trẻ thiểu năng, ở thành phố sẽ ảnh hưởng tới hình ảnh gia đình. Thử nghĩ nhà họ Thư từ cuối đời Thanh cho đến đời bố cô sản sinh ra không biết bao nhiêu tài tử giai nhân, người nào cũng thành tựu lớn, có người vang danh cả bên nước ngoài, một gia tộc ưu tí như vậy sao có thể đẻ ra một kẻ đần độn được? Thư Bá Tiêu cho dù thế nào cũng không thừa nhận đó là do di truyền, một mực cho rằng Tần Hương Lan khi mang thai Thư Mạn đã lạm dụng quá nhiều thuốc bắc nên mới gây ra như thế. Tầm Hương Lan lúc đó trên người đúng là mọc nhiều nốt đỏ kỳ lạ, vừa đau vừa ngứa, dùng thuốc bôi nào cũng không chữa trị được. Thuốc tây tác dụng phụ lại lớn, bà đành mời một thầy lang kê đơn thuốc. Điều kỳ lạ là khi Thư Mạn vừa chào đời, những nốt đỏ trên người bà cũng tự nhiên hết hẳn, không cần phải uống thuốc hay tiêm nữa. Thế là Tần Hương Lan chốt lại một câu: “Đứa bé này mang cả độc đến theo!”

Một đứa trẻ như vậy dĩ nhiên chỉ xứng đáng được ở quê. Lúc chín tuổi, Thư Mạn được bố đón về thành phố. Đến nay cô vẫn nhớ ánh mắt của mẹ nhìn cô từ đầu đến chân khi cô vừa vào đến cửa. Ánh mắt đó biểu hiện sự thất vọng tột cùng, thậm chí bà nói ngay trước mặt cô, “Đứa trẻ như vậy làm sao dám dẫn ra đường?” May mà thượng đế phú cho cô vẻ đẹp xinh tươi, đôi mắt to sáng láy, làn da không mịn màng theo kiểu được đánh lên lớp phấn mà nhẵn mịn trắng hồng một cách tự nhiên, là da mà những đứa trẻ lớn lên trong thành phố như Thư Tần và Thư Duệ đều không thể có. Điều này cũng an ủi được mẹ cô phần nào, con gái chỉ cần xinh đẹp thì không lo không có tương lai. Ít nhất có thể đem gả cô cho một nhà tốt cũng là chuyện không quá khó. Chẳng hạn như bản thân mẹ cô, tuy rằng xuất thân bần hàn nhưng lại được gả vào nhà họ Thư, chẳng phải cũng đã hòa vào xã hội thượng lưu, thành phu nhân của hiệu trường Thư trường đại học Sư phạm Ly Thành sao?

Nói tới nhà họ Thư, ngay từ đời ông cố đã có tiếng là danh gia vọng tộc trong vùng. Ông của Thư Mạn hồi còn nhỏ cũng được qua Tây học, tới thời kỳ dân quốc lại đảm nhiệm qua nhiều chức vụ quang trọng trong chính phủ, làm kinh doanh nhiều năm. Nếu không phải sau khi chính phủ mới được thành lập, phần lớn tài sản đều bị sung công, quyên góp hay tặng đi thì nhà họ Thư cũng không chỉ có một tòa nhà nhỏ này. Nghe mẹ nói, lúc đó nửa con phố Đào Lý mà nhà họ Thư sống hiện nay đều là của ông nội. Cho tới bây giờ bác và hai chú của cô vẫn hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh chỉ có bố cô đi theo sự nghiệp giáo dục. Từ khi làm hiệu trưởng trường Sư phạm đến nay, học sinh của bố trải khắp cả nước. Chỉ duy nhất một điều khiến Thư Mạn không hiểu là, một gia đình hiển hách như vậy thì người mẹ xuất thân quê mùa của cô làm thế nào có thể được gả vào. Một lần hỏi đến chuyện này mẹ luôn ậm ừ cho qua, nhưng điều cô có thể chắc chắn là lúc đó bố mẹ đã được phép tự do yêu đương. Có lẽ vì ông nội đã từng du học bên Tây nên tư tưởng cũng thoáng hơn, không đòi hỏi khắt khe về việc môn đăng hộ đối. Thế nhưng, mẹ lại hay nói với các con gái mình rằng, là con gái, sự nghiệp giỏi giang không bằng làm vợ đảm đang. Dĩ nhiên, tiên đề trước đó phải có sắc đẹp trời cho. Quả thực, khi còn trẻ mẹ cô rất xinh đẹp, mẹ đủ tự tin để có được tình yêu thương của bố. Từ nhỏ đến lớn, Thư Mạn chưa từng thấy bố tức giận với mẹ lấy một lần. Mỗi lần sinh nhật hay những ngày kỷ niệm đặc biệt của hai người bố cô đều nhớ, còn tặng hoa cho mẹ. Hai vợ chồng già còn ân ái, tình cảm hơn là vợ chồng son. Hơn ba mươi năm sống trong cảnh an nhàn sung sướng, mẹ cô hoàn toàn thoát khỏi vẻ ngoài của cô gái thôn quê năm nào, từ cách ăn mặc, trang điểm hay ngôn từ cử chỉ đều là một mẫu quý bà quý phái hàng đầu trong thành phố.

Nhưng hi vọng của mẹ với cô cuối cùng cũng đã tan thành bọt ước, vì “cô ba” đúng là có nột không gột nổi lên hổ. Sáu năm, mẹ đã hao phí sáu năm ròng, chỉ mong cô trở thành đứa trẻ thành phố, thậm chí còn mời riêng thầy về dạy ứng xử cho cô, nhưng tất cả đều như muối bỏ bể. Cho dù sau đó trông cô đã phần nào da dáng trẻ thành thị, nhưng cũng chỉ là bề ngoài, chỉ cần để ý một chút, hàng tá thói quen xấu không thể sửa của cô lại lộ ra: ăn không có dáng, ngồi không thấy tướng, nhìn thế nào cũng giống một đứa trẻ hoang dại. Con em nhà họ Thư có ai không được nuôi dạy cực tốt, nhưng chỉ mỗi cô là không biết phép tắc, chẳng hạn khi đang ăn cơm bỗng nhiên cười sằng sặc, cơm trong miệng cứ thế tự nhiên phun hết ra ngoài…, khiến người mẹ bình sinh chưa từng biết hối hận là gì của cô cũng phải thốt lên bà có hai chuyện hối hận nhất cả đời, một là đã sinh ra cô, hai là đã để bố cô đưa cô về quê.

Nhưng với Thư Mạn mà nói, mẹ cô yêu cầu là một chuyện, cô làm hay không lại là chuyện khác, bản tính tự do thích làm theo ý mình của cô làm sao mẹ có thể dễ dàng thay đổi được. Thư Mạn chẳng quan tâm đến thứ gì, cả ngày chỉ tươi cười hớn hở vô ưu vô lo. Ngoài việc bà ngoại qua đời, kí ức về những năm tháng ấu thơ dường như không có chuyện gì khiến cô quá đau buồn. Bản tính cô không sợ trời cũng chẳng sợ đất, ngày đầu tiên đi học sau khi về thành phố, cô đánh nhau với bạn học, bị bố mẹ bạn học và thầy cô hỏi tội là chuyện thường như cơm bữa, không có vấn đề gì khó khăn với cô. Điều phiền phức nhất thời niên thiếu của Thư Mạn và khiến cô cảm thấy vô vị nhất đó chính là việc phải chơi piano. Cô ghét nó thậm tệ, nhưng đó lại đúng là bước đi đầu tiên mà mẹ dùng hòng “cải tạo” cô thành một đứa trẻ thành phố đích thực.

Thư Mạn cũng có nhạc cụ của riêng mình, đó là một chiếc đàn nhị cũ. Cô biết kéo nhị ngay từ khi còn rất nhỏ, lúc vẫn ở dưới quê. Mỗi khi nhàn nhã, Thư Mạn thường lôi nó ra và kéo vài khúc nhạc. Đường Đào Lý mà nhà họ Thư đang sống là khu nhà giàu, tập trung các bậc thượng lưu, người nổi tiếng, còn tiếng đàn nhị mà Thư Mạn thi thoảng kéo lại chẳng khác gì tiếng nhạc của những người hành khất. “Nghe cô ba nhà bà kéo đàn là muốn khóc” là câu mà hàng xóm nhà cô hay nói. Mẹ cô nghe thế cảm thấy không vui, bà không cho Thư Mạn chơi đàn nhị, nói con gái kéo nhị giống như kẻ ăn xin, không có khí chất. Nhưng bố cô lại thích, ông phản bác vợ: “Nhị cũng là một loại nhạc cụ, còn là tinh hoa dân tộc, sao nói là ăn xin được?”

Có bố chống lưng, mẹ cô cũng không dám phản đối gay gắt, nhưng lại ép Thư Mạn học chơi piano cùng chị, bà nói con gái chơi piano rất có phong thái, sau này sẽ có nhân duyên tốt. Ý của câu nói này chính là con gái học đánh piano sẽ có thể tìm được một đối tượng tốt. Thư Mạn lúc đầu thà chết chứ không khuất phục, nhất quyết không chịu học đàn piano, mẹ cô liền đe dọa, nếu không học thì cũng không được kéo đàn nhị. Chiêu này quả nhiên có tác dụng. Thư Mạn đành cố ép mình cùng học với chị. Âm nhạc quả là sợi dây kết nối kì diệu, Thư Mạn rất nhanh sau đó đã biết chơi piano, nhưng cũng chỉ dùng lại ở biết chơi thôi, cô cũng ý thức dù cô có đánh đến đứt hơi ngừng thở cũng không thể vượt qua được Thư Tần được. Thư Tần bốn tuổi đã học đàn, ai có thể đuổi kịp cô?

Mẹ cũng không có ý kiến gì với việc này, bà ép Thư Mạn học piano chẳng qua cũng chỉ muốn cô có được phong thái như những đứa trẻ thành phố khác, còn học ra thế nào bà không thật sự để ý tới. Những yêu cầu của bà với Thư Tần thì khác. Thư Tần mười chín tuổi đã học ở Học viện âm nhạc, lại chuẩn bị ra nước ngoài học chuyên sâu, việc trong nhà có một nhà piano nổi tiếng là chuyện vinh quang nhất của nhà họ Thư, mẹ cô vì thế mà vui không biết mệt gì.

Thư Tần ý thức trên vai mình đang gánh vác kì vọng của bố mẹ nên học đàn rất nghiêm túc, không giống như em gái Thư Mạn của mình, phần lớn thời gian đều vừa chơi vừa học. Một bản nhạc hay qua bàn tay Thư Tần càng khiến nó có thêm sức sống, nhưng rơi vào tay Thư Mạn chẳng khác nào tiếng sấm bên tai, không tài nào nghe ra đó là bản nhạc gì. Cất công mời rất nhiều giáo viên tới, nhưng người nào cũng cúi đầu chào thua với Thư Mạn.” Không sao, dạy cơ bản là được rồi”, mẹ cô vẫn thường phải trấn an các thầy dạy nhạc như vậy.

Thế nhưng, mẹ cô cũng có điều sầu khổ. Thư Mạn đánh đàn loạn nhạc thì thôi, bài vở kém cũng đành, nhưng lại thường hay gây họa. Cuối cùng, mẹ cô cũng không thể chịu đựng được hơn, bỏ quách Thư Mạn vào học trường nữ sinh ký túc duy nhất của Ly Thành, chịu sự quản lý khép kín, để thầy cô trong trường từ từ trị cô. Đây chính là trường trung học nữ sinh Mary rất có tiếng tăm, có gần trăm năm lịch sử. Cả khuôn viên trường từ kiến trúc, môi trường hay phương pháp giáo dục đều được phương Tây hóa, mời nhiều giáo viên nước ngoài, nơi đây nổi tiếng về dạy bộ môn ngoại ngữ và nghệ thuật. Mẹ cô trước giờ đều theo mốt Tây, nơi đây vừa chuẩn thích hợp với bà, vì vậy bà không tiếc đốt một khoản tiền lớn vào đó, lại nhờ vào thanh danh của hiệu trưởng trường Đại học Sư phạm Thư Bá Tiêu, cuối cùng bà cũng nhét được Thư Mạn vào.

Kỷ luật trường nữ sinh Mary vô cùng nghiêm khắc, cách họ phạt học sinh cũng rất đặc biệt, nếu vi phạm kỉ luật, hình phạt nghiêm khắc nhất chính là không được về nhà, cuối tuần ở lại trường lao động nghĩa vụ, cấm người nhà đến thăm, nhiều lần tái phạm mà không biết hối cải thì bị đuổi học, Lần Thư Mạn bị phạt nặng nhất là án phạt năm tuần liên tiếp không được về nhà, phải quét lá ở lối đi trong trường gần hai tháng trời, khiến cô sau đó phờ phạc mà nằm gục. Mấy năm sau đó, cô cũng không tránh khỏi bị phạt liên miên, thường không về nổi nhà. Cô không bị đuổi học, phần nhiều là vì họ e ngại thanh danh của bố cô. Vì vậy trong mấy năm trung học, Thư Mạn rất hiếm khi được ở với người nhà, lần nào từ trường học về cô cũng luôn có cảm giác mình là khách, làm sao cũng không thể hòa nhập vào với nền nếp sinh hỏa của gia đình. Mọi người nói chuyện về cái gì, hình như đều không liên quan đến cô.

Không biết từ lúc nào, đề tài mà người nhà nhắc tới nhiều nhất lại là chuyện của nhà của Phó viện trưởng Lâm. Phó viện trưởng Lâm Sỹ Diên là bạn thâm giao của bố cô, từng đảm nhiệm chức vụ Viện phó Bệnh viện Nhân dân Ly Thành, cuối năm 70 của thế kỷ trước đã định ở nước ngoài, gây dựng nên cả một sản nghiệp lớn, những năm 80 ông đầu tư xây dựng hẳn một bệnh việc tư nhân lớn ở Ly Thành với thân phận Hoa kiều.

Thư Mạn lúc đó hoàn toàn không rõ giao tình của hai nhà Thư – Lâm thân thiết đến mức nào, chỉ biết nhà họ lâm có hai người con trai lớn lên ở Mỹ. Phó viện trưởng Lâm sống bên Mỹ nhưng lại đưa mấy người con của mình về nước, nghe nói là để học tiếng Trung Quốc. Lúc đầu họ đều sống trong nhà bác Lâm Duy làm luật sư, sau đó hai anh em lại chuyển về sống ở đường Thúy Hà, nhà họ Lâm còn một căn nhà cũ ở đó. Thế là, Phó viện trưởng Lâm lại nhờ cậy hai vợ chồng Thư Bá Tiêu trông nom, chiếu cố đến hai người con trai của mình, vì vậy hai nhà thường xuyên qua lại, hai người con trai của Phó viện trưởng Lâm thường làm khách ở nhà họ Thư, anh chị của Thư Mạn cũng hay đến nhà họ chơi. Chỉ có Thư Mạn học ở trường thường trú, lại hay bị phạt không được về nhà nên chưa từng gặp.

Chị của Thư Mạn thường hồ hởi nhắc tới họ, đặc biệt thích nói tới người anh, tên Trung Quốc là Lâm Nhiên. Cố nhân vẫn nói, người con gái nếu đem lòng yêu hay nhung nhớ một người thì sẽ ngày càng xinh tươi, chị Thư Tần lúc ấy rất đẹp, dĩ nhiên chị đã vốn đẹp, nhưng lúc bàn luận về Lâm Nhiên vẻ đẹp ấy càng nổi bật, mặt đầy xuân sắc và rạng rỡ hơn bao giờ hết. Những lúc ấy, Thư Mạn cảm thấy bản thân mình trước chị chẳng khác nào vịt con xấu xí đứng cạnh thiên nga.

Thế nhưng, Thư Mạn mãi vẫn chưa có duyên gặp mặt” hoàng tử trong mộng” của chị. Vì không lâu sau, cô được trường khuyên thôi học, tám môn thi cuối kỳ thì bảy môn không đạt, hiệu trưởng trường nữ sinh Mary phải khéo léo nói với người đồng cấp Thư Bá Tiêu: “Cô nhà ngoài chuyên bài vở ra, trong lĩnh vực âm nhạc khẳng định là một thiên tài, chúng tôi hiện nay không có đội ngũ giáo viên như vậy để dạy cháu, tốt hơn nên chuyển cháu đến trường khác để chuyên sâu, tránh làm lỡ mất một tài năng…”

Sắc mặc bố Thư Mạn lúc đó tối sầm lại, cô bị phạt quỳ bàn gột áo suốt một ngày. Mẹ cô không nuốt trôi cơn giận, trong cơn lôi đình đã đưa cô tới trường trung học số hai ở Đồng Thành xa xôi để học, ngoài hai kì nghỉ đông và nghỉ hè ra, ngày thường không được về nhà. Từ lớp tám đến khi tốt nghiệp trung học phổ thông, cô bị người nhà ném ở Đồng Thành, ban đầu còn thấy bản thân giống như bị bỏ rơi, nhưng thoáng cái cô đã vui vẻ quên mọi ấm ức. Trường trung học số hai Đồng Thành so với trường nữ sinh Mary như nhà tù kia thật chẳng khác nào một thiên đường, Thư Mạn chơi ở nơi này bốn năm, cho tới tận lúc trượt đại học mới về nhà.

Người nhà không hề cảm thấy ngạc nhiên với việc Thư Mạn thi trượt, đó là chuyện bình thường, cô thi đỗ thì mới là bất thường, vậy nên bố mẹ cũng không quá gây khó dễ. Họ suy đi nghĩ lại, quyết định để Thư Mạn học lại, để tránh thi trượt lần nữa, họ để cô chọn thi vào trường nghệ thuật, vì kết quả các môn văn hóa của trường nghệ thuật yêu cầu không cao. Đây cũng là chuyện bất đắc dĩ, đường đường là con gái của Hiệu trưởng Đại học Sư phạm Ly Thành lại không thi đỗ đại học, riêng điều đó thôi đã chẳng đủ để thiên ha cười nhạo hay sao? Kết quả môn chuyên ngành của Thư Mạn chắc chắn không có vấn đề, cô biết chơi mấy loại nhạc cụ, lại còn giỏi đàn nhị, nếu có thể thi đỗ vào trường nghệ thuật, ít nhiều cũng có thể giúp nhà họ Thư lấy lại chút sĩ diện.

Tuy nhiên, xét tính tự giác của cô quá kém, mẹ cô cũng không dám để cô về Đồng Thành học lại mà sắp xếp cô vào trường trung học số một ở Ly Thành, chuẩn bị chiến đấu cho kì thi đại học năm sau. Trường trung học số một là một trường trọng điểm của Ly Thành, áp lực học hành rất lớn, trong thời gian ấy, Thư Mạn sáng đi học, tối về nhà còn bị ép học thêm, gia sư mẹ cô mời tới hết người này lại đến người khác, Thư Mạn tưởng như mình sắp phát điên. Cô rất ngưỡng mộ chị Thư Tần, lúc nào cũng được mẹ đưa đi chơi, tham gia các buổi tiệc tùng xã giao, cứ như mẹ sợ người khác không biết nhà họ Thư có cô con gái tài mạo song toàn vậy. Mẹ rất ít khi dẫn Thư Mạn đi ra ngoài, vì chỉ cần cô ra khỏi cửa là y rằng mọi thứ náo loạn hết cả lên, khiến bà nhiều phen mất mặt. Nhưng Thư Tần lại quý cô, đi đâu cũng đưa cô đi. Sau này, có lúc Thư Mạn đã nghĩ, Thư Tần yêu quý cô như vậy có lẽ nào muốn để có người làm nền, giống như hoa tươi lúc nào cũng cần lá xanh tô điểm, cô vừa hay chính là lá xanh của chị. Thư Tần từ nhỏ đã được cưng chiều, đã quen với việc tất cả mọi người đều làm nền cho cô, cũng giống như Thư Mạn đã quen làm nền cho người khác.

Có điều, chuyện trên đời ai có thể đoán biết.

Buổi tối trước ngày Thư Tần ra nước ngoài, Thư Bá Tiêu dẫn cả nhà đến nhà Phó viện trưởng Lâm chơi, vì Phó viện trưởng Lâm đã về nước định cư, muốn tổ chức một buổi tiệc gặp mặt bạn bè người thân. Ngoài Thư Mạn ra, mọi người trong nhà đều ăn mặc chải chuốt để đi dự tiệc. Thư Tần mặc bộ lễ phục hở vai màu hồng lam do đích thân mẹ tận tâm chuẩn bị, trang điểm nhẹ nhàng, trông cô thật đẹp biết mấy. Em gái Thư Duệ lúc đó còn nhỏ không cầu kì, chỉ mặc một chiếc váy học sinh đáng yêu. Thư Mạn vừa qua tuổi mười sáu, cô chỉ mặc chiêc áo cổ tròn may bằng lụa trắng, váy xếp li màu đen, đầu buộc tóc đôi ngựa, để mặt mộc, khác hoàn toàn so với sự kiều diễm của chị, Thư Mạn thuần khiết đúng như bản sắc của cô. Nhưng Thư Mạn lại là người tò mò với tất cả mọi thứ, vừa tới ngôi nhà bề thế của nhà họ Lâm, cô đã chạy hết một lượt tầng trên tầng dưới, bên trong bên ngoài, bố mẹ và các anh chị cô đang bận nói chuyện với người nhà họ Lâm nên dễ dàng bỏ quên cô. Nhưng Thư Mạn vẫn nghe thấy bà Lâm nói với mẹ cô: “Đứa trẻ này đã lớn như vậy rồi, đúng thật không ngờ.”

Mẹ nói: “Đúng vậy, may là nhờ Sỹ Diên, nếu không cháu nó sao có thể sống được?”

“Chuyện quá khứ đừng nhắc nữa.” Nét mặt phó viện trưởng Lâm buồn bã, dường như không muốn nhắc tới chuyện xưa,” Có người sống được, thì có người chết đi, có điều gì đáng mừng!”

Ngôi nhà lập tức chìm trong im lặng.

Cuối cùng bố cô là người chủ động chuyển đề tài: “Lâm Nhiên đâu, sao không thấy cháu?”

“À, tối nay có buổi phỏng vấn, có lẽ cháu nó sẽ về muộn một chút.” Bà Lâm mỉm cười đáp, nhìn bà trông thật đẹp, Thư Mạn cảm thấy bà còn đẹp hơn mẹ mình, chẳng trách mọi người vẫn thường nhắc tới một Lâm phu nhân hồi trẻ là một diễn viên múa nổi tiếng khắp Giang Nam.

Bố lại hỏi: “Kỳ kỳ đâu, bây giờ…”

“Vẫn ở viện số hai, chỉ có thể để nó ở đấy, nếu không thì thế nào?” Phó viện trưởng Lâm thở dài.

“Thế thì làm sao mà chịu được, tuổi còn trẻ mà…”

“Đúng là không chịu được, ông Lương nói thằng quỷ ấy ở trong đó không yên phận chút nào, thường hay biến mất, lần nào ông Lương cũng phải chạy ra ngoài bắt về, sợ nó lại đi ra ngoài gây gổ. Để bên nhà họ Diệp biết được rồi thế nào cũng tốt hơn để nó ngồi tù.”

“Nói cũng phải.”



Người lớn nói chuyện Thư Mạn không biết, cô cũng không có hứng thú nghe. Cô đi ra ngoài ngồi xích đu dưới giàn nho ngoài vườn. Trong vườn trồng rất nhiều hoa nhài, đang kì hoa nở, cả khu vườn tỏa hương thơm dịu mát. Thư Mạn đặc biệt thích hoa nhài, thích màu trắng nhạt, mùi hương dịu mát của hoa, cô thấy mình giống như bông hoa nhài nở rộ ở góc vườn, không bị người khác chú ý, tự hưởng thụ khoảng trời riêng mình. Còn Thư Tần chính là bông hồng tươi thắm, rực rỡ dưới ánh nắng, đi đâu cũng được người khác nâng niu. Có điều Thư Mạn cảm thấy hoa nhài cũng có cái hay riêng, chí ít không cần từ sáng đến tối phải chú ý giữ gìn hình tượng, giống như Thư Tần, cơm không được ăn quá no, nói không được lớn tiếng, ngay cả cười cũng phải đoan trang nhã nhặn, với Thư Mạn, như thế thật quá mệt mỏi. Đang suy nghĩ miên man, bỗng có một bóng người nhảy vụt vào vườn hoa. Có trộm! Lúc đó, trong đầu Thư Mạn vụt ngay suy nghĩ ấy, cô nhảy ra khỏi xích đu, nhưng cô không muốn đánh rắn mà làm động cỏ, cô khom người chạy tới gốc cây long não trước cửa lớn, tìm kiếm mục tiêu. Dưới những tia sáng u ám, cô không thể nhìn thấy gì. Bỗng nhiên, một đôi tay thò ra từ sau cây, cô còn chưa kịp lên tiếng đã bị bịt chặt miệng: “Suỵt!”, người phía sau lên tiếng chặn cô lên tiếng.

Cô khống chế hơi thở, sau đó không lên tiếng thật. Người đó lúc này mới chịu nới lỏng tay, Thư Mạn lập tức quay đầu lại, đập vào mắt cô là một gương mặt rất trẻ, tầm hơn hai mươi tuổi, mặc chiếc áo T-shirt trắng, vì bóng tán cây trùm lên mặt làm khuất cả ngũ quan, cô chỉ nhìn thấy hàm răng trắng muốt đang nhe ra, dưới ánh trăng trông chẳng khác nào răng một con dã thú ăn thịt người.

“Anh là ai?” Thư Mạn không hề sợ hãi cất lời hỏi, bởi mấy năm ở nông thôn có gì đáng sợ mà cô chưa thấy? Anh dĩ nhiên cũng không sợ cô, buông cô ra, hỏi ngược lại: “Cô là ai?”

“Tôi là khách ở đây.”

“À.” Anh kéo dài giọng, đôi mắt sâu thẳm như đại dương thích thú quan sát cô,” Trẻ hoang dại của nhà nào?”

“Anh mới tên hoang dại!.”

“Tôi đúng là một tên hoang dại!”

“Sao anh lại ở đây? Anh là trộm?” Thư Mạn tròn xoe mắt, hai hàng mi chớp động giống những cơn sóng lăn tăn trên mặt hồ trong xanh. Cô ngẩng mặt lên, gương mặt trắng hồng vẫn thấp thoáng nét ngây thơ, như sẵn sang bất cứ lúc nào cũng có thể lao vào nhà gọi người lớn.

“Trộm?” Anh khẽ nheo mắt lại, khoanh tay, dựa người vào thân cây, cười hì hì,” Trộm gì nhỉ? Tôi đúng là vẫn còn chưa nghĩ ra trộm gì, hay là trộm cô?” Nói rồi anh giơ tay kéo tóc đuôi ngựa của Thư Mạn.

Thư Mạn nhảy bật ra như một con thỏ, chỉ vào anh mắng: “Đồ khốn, lưu manh!...”

Anh ta hoàn toàn không có vẻ gì tức giận, lại đi lên vài bước, bóng cây trên mặt đã mất, lộ ra một bộ dạng sáng láng, một khuôn mặt sắc cạnh! Anh mỉm cười, Thư Mạn phát hiện khi anh cười thấp thoáng lúm đồng tiền, đôi mắt sáng ngời như những vì sao. Không thể phủ nhận, anh ra có một khuôn mặt rất ưa nhìn, chỉ là nụ cười chứa đầy tà ý. Anh đưa tay ra bắt tay Thư Mạn: “Nhóc con, có biết lưu manh là thế nào không? Có cần tôi làm thử cho cô xem…”

Thư Mạn xoay người chạy, mới được vài bước đã bị va vào một người,” Á!” Cô bị ngã ngồi phịch xuống nền đất trước cổng vườn hoa. Cô hoảng sợ ngẩng đầu lên nhìn, đối diện với ánh trăng, dường như đứng trước cổng vườn hoa. Cô hoảng sợ ngẩng đầu nhìn, đối diện với ánh trăng, dường như đứng trước mặt cô lúc này lại là một người khác, vóc người cao ngất, bộ vest màu xang sậm cùng chiếc áo sơ mi trắng càng tôn lên khí chất khác người, thấy Thư Mạn té đất liền vội càng đưa tay ra đỡ cô: “Thế nào rồi, không bị ngã chứ?”

Với sức vóc của mình, thoáng cái anh đã kéo được cô dậy. Thư Mạn giống như bị rơi vào trong mây, cô nhìn cây mã não trên thảm cỏ bên cạnh, rồi lại nhìn người trước mặt, không phải trò ảo thuật chứ? Sao chớp mắt lại biến ra hai” con ma” thế này? Cô lắc lắc đầu một hồi, rồi lại hỏi: “Anh là ai?”

“Câu này là tôi hỏi mới đúng.” Hoàn toàn khác với tên hung thần ác quỷ vừa rồi, người đang đứng dưới ánh trăng trước mặt Thư Mạn lúc này vô cùng nhã nhặn, trông rất hiền hòa. Có lẽ ánh trăng đêm đó sáng tỏ hơn thường ngày, Thư Mạn cảm thấy trên khuôn mặt tuấn tú của anh phát ra thứ ánh sáng như trong giấc mộng huyền ảo, đôi mắt biết cười, vóc người không vạm vỡ như kẻ vừa rồi, nhưng chẳng chút nào ảnh hưởng tới vẻ nam tính toát ra từ trong anh. Khi anh cười, Thư Mạn bất chợt thấy tim mình hoảng hốt, mặc dù cũng không biết mình hoảng hốt vì điều gì.

“Chào em, tôi chưa từng gặp em, em tên gì?” Anh cười tươi hỏi cô.

“Em, em là Thư Mạn.” Thư Mạn sững người, cô hoàn toàn đã bị tướng mạo của anh cuốn hút, một khuôn mặt đẹp lạ thường, đặc biệt là đôi mắt đen láy như sắc trời đêm toát lên vẻ điềm đạm trầm tĩnh, nụ cười rạng rỡ như hoa, cô nghe thấy anh nói: “Tôi là Lâm Nhiên, chào mừng em đến nhà chúng tôi.”

Lâm Nhiên đến gần hơn, cúi đầu nhìn cô, trong mắt hiện ra vẻ ngờ vực: “Em là em gái của Thư Tần? Sao không giống nhau chút nào, em không giống với anh chị mình, có đúng là em ruột của họ không?”

“Em là chính em, việc gì phải giống họ?”

“Nói đúng lắm, em là chính em! Nhưng mà, không chỉ tướng mạo không giống, ngay cả cảm giác cũng không giống” Lâm Nhiên ngồi xuống chiếc ghế đá bên cây mã não, ánh mắt lay láy nhìn Thư Mạn cười. Lúc này, ánh trăng chiếu thẳng vào khuôn mặt anh, rõ đến mức cô nhìn thấy cả phía viền tóc trên trán anh có một vết sẹo mờ, nếu không chú ý sẽ không nhìn ra. Vết sẹo hằn trên gương mặt tuấn tú của anh dường như có gì đó không hợp, may rằng nó không rõ. Cô không giấu nổi tò mò, bất giác hỏi: “Trán anh từng bị thương sao?”

Trong mắt Lâm Nhiên thoáng hiện nét ngạc nhiên, anh vô thức sờ lên trán mình, ngượng ngùng giải thích: “À, lúc nhỏ không cẩn thận bị va vào đó.”

“Chỉ sợ là đánh nhau với người ta thôi.”

Anh sững người: “Sao em lại chắc chắn như vậy?”

Thư Mạn cười khanh khác đáp: “Chỉ có đánh nhau mới để lại vết sẹo như thế, lúc nhỏ em đánh với người khác cũng từng bị thương.”

“Ồ? Em cũng đánh nhau với người ta cơ à?” Lâm Nhiên lộ rõ vẻ hứng thú.

“Đánh chứ, sao lại không? Khi bị người khác bắt nạt, lẽ nào em lại để mình như khúc gỗ?”

“Vậy em có thắng không?” Anh cười, nụ cười thể hiện nhiều thâm ý.

“Có thắng, cũng có thua.” Thư Mạn trả lời thật thà.

Lúc này, trong nhà bắt đầu vang lên khúc nhạc dạo đầu rất du dương của bản” Thư gửi Elise”.” Chị gái em bắt đầu chơi đàn rồi, em không vào nghe thử à?” Lâm Nhiên dường như đã rất quen với tiếng đàn này.

Thư Mạn lắc đầu: “Ngày nào em cũng nghe chị ấy chơi, nghe đến phát chán rồi, không muốn nghe, em không thích piano một chút nào”

“Vậy em thích gì?”

“Em thích chơi nhị”

“Em biết kéo nhị?”

“Dĩ nhiên rồi, tiếc là nhà anh không có, nếu không em sẽ kéo cho anh nghe một bài.”

“Ai nói không có, anh sẽ đi lấy cho em.” Lâm Nhiên nói rồi nhanh chân bước vào nhà, bóng dáng nhẹ nhàng lướt qua khiến Thư Mạn thoáng thẫn thờ, ánh trăng vàng xuyên qua các khe hở của tán lá chiếu vào đầu và vai anh, trông anh từ phía sau khi ấy chẳng khác nào một chàng hoàng tử mang đầy cốt cách đạo tiên, tuyệt đối không có ở thế gian này.

“Nào, kéo một bài anh nghe thử xem.” Lâm Nhiên lát sau đã trở ra, trao cho Thư Mạn cây đàn nhị hồ. Lúc này, chị cô cũng vừa đánh xong nốt nhạc cuối cùng, trong nhà vang lên những lời tán tụng mà chị ấy luôn coi là tất nhiên, là bình thường. Thư Mạn không biểu lộ gì, cô luôn cảm thấy chị ấy đánh đàn như đang biểu diễn, điều chú trọng là tư thế chứ không phải là tiếng đàn, nên mỗi một bản nhạc dù có được chơi một cách hoàn hảo cũng không thể làm cô rung động.

“Bắt đầu đi, ở đây không có người nào khác đâu.” Lâm Nhiên khích lệ cô.

Thư Mạn đặt đàn lên đùi, thử qua âm thanh rồi nhắm mắt lại tập trung chơi bản” Nhị tuyền ánh nguyệt.” Mỗi lần kéo đàn, cô như thấy linh hồn mình đang bay lên, tiếng gió, tiếng lá cây như cùng diễn tấu với cô, tiếng đàn càng thêm ai oán khiến cho ánh trăng phải trốn sau những tầng mây. Cô bất chợt như được về thôn trang của bà ngoại, ngồi dưới gốc cây hòe đầu thôn kéo đàn, từ sáng sớm đến hoàng hôn, ngay cả con chim cũng ngừng cất tiếng, lặng im đứng ở đầu cây lắng nghe. Duy chỉ có lúc kéo đàn cô mới cảm nhận được thân thể mình không hòa nhập được với thế giới này, cô không thuộc về nơi đây, cô nên trở về vùng quê đầy khói bếp, cô thuộc về tự do, nơi mà đến từng cơn gió cũng thật tự do…

Tiếng đàn thưa dần đi, cuối cùng ngừng bặt.

Đến lúc mở mắt cô thót giật mình, Lâm Nhiên đang ngồi trước mắt cô, mắt ngấn lệ. Trong vườn xuất hiện thêm nhiều người, trong đó có cả Lâm Sỹ Diên, bố của Lâm Nhiên, cũng rưng rưng hai hàng nước mắt. Ông bước tới, kéo tay cô nghẹn ngào nói: “Con à, ai đã dạy con đàn, bác phiêu bạt nước ngoài nhiều năm rồi, đến nằm mơ cũng muốn nghe thấy tiếng đàn như vậy…” Phó viện trưởng Lâm đã khóc không thành tiếng, hiển nhiên tiếng đàn của Thư Mạn đã chạm vào dĩ vãng xa xôi khảm tận đáy lòng ông,” Tiếng đàn của con làm trái tim người khác phải tan vỡ… Con à, nói cho bác biết, con còn nhỏ như vậy, sao có thể kéo đàn hay đến thế? Ngoài Kỳ Kỳ ra, nghệ sĩ nổi tiếng cũng không thể có tiếng đàn xúc động như con. Con khiến bác nhớ lại rất nhiều chuyện quá khứ. Người ta thường nói thời gian là viên thuốc chữa khỏi tất cả vết thương lòng, ta đã làm thuốc cả đời, nhưng chẳng thể nào chữa được vết thương của mình, thời gian, vốn cũng chẳng có ích gì…”

Phó viện trưởng Lâm như còn chưa tâm sự hết nỗi lòng, ông dắt Thư Mạn vào trong nhà, rồi để cô kéo thêm vài khúc nhạc, cuối cùng còn muốn nhận cô làm con nuôi. Một bác bên cạnh tếu táo nói: “Nhận con gái nuôi làm cái gì, con gái sớm muộn cũng phải đi lấy chồng, chi bằng nhận làm con dâu luôn đi, dù gì ông cũng có hai người con trai cơ mà.”

Phó viện trưởng Lâm nghĩ cũng phải, ông chỉ vào hai người con của mình, hỏi Thư Mạn: “Mạn Mạn, con chọn đi, hai người này tùy con chọn, chỉ cần con chịu làm dâu nhà bác, một nửa gia sản của bác sẽ là của con!”

Thư Mạn không hề do dự chỉ vào Lâm Nhiên: “Con chọn anh này.”

Thư Mạn vừa dứt lời, tất cả mọi người trong phòng đều cười rộ lên. Lâm Nhiên cũng cười, điệu bộ của anh khi cười rất đặc biệt, đôi môi uốn thành một đường cong hoàn mỹ, anh khoang tay, nghiêng đầu, đôi mắt trong veo ngời sáng, còn có sức lay động lòng người hơn cả vẻ đẹp của ngôi sao sáng nhất bên ngoài kia. Lúc đó, chỉ duy nhất chị Thư Tần không hề cười.

Mẹ cô vội vàng xoa dịu mọi người: “Sỹ Diên đúng là biết nói đùa, Mạn Mạn còn nhỏ như vậy, còn đang đi học, nói gì đến chuyện dâu con…” Bà Lưu Yến, vợ Phó viện trưởng Lâm cũng nhanh chóng tiếp lời: “Vậy thì Tần Tần đi, vừa độ tuổi, hai nhà chúng ta mà thành thông gia thì đúng là thân càng thêm thân, mọi người nói có phải không?”

“Đúng vậy, đúng vậy.” Mọi người trong phòng nhất loạt hưởng ứng.

“Một mối nhân duyên tốt đấy, trời sinh một cặp.”

“Ôi, đây cũng là chuyện nghìn năm khó gặp đấy nhé!”



Mọi người ở đó đều bàn tán sôi nổi. Thư Mạn không nghe rõ họ nói gì, đôi mắt cô mải hướng về phía Lâm Nhiên, vẻ mặt anh thay đổi không yên, ánh mắt lại vô cùng ấm nóng, luôn cười với cô. Nhịp tim cô đập nhanh hơn, cô hồi hộp đến mức không biết bản thân nên làm gì. Dường như trong chớp mắt, thế giới hỗn độn thuở sơ khai trong cô như được đón nhận những tia nắng ấm thuần khiết, bầu trời trong cô bỗng nhiên bừng sáng, cõi lòng cô như hé mở, ánh mắt anh đã đánh thức những cảm xúc đang ngủ say trong cô. Cô như không còn nhìn thấy ai khác, lặng yên để mặc cho vòng sáng êm dịu của chúa trời chụp vào cô, kêu gọi cô, mảnh vườn tâm hồn u tối của cô bỗng nhiên như được thắp lên ngọn lửa bùng cháy hừng hực, tâm trạng và thế giới trong cô chợt thay đổi, từng hồi tim đập rộn ràng cùng sự thổn thức khó hiểu, tựa như đang hỗn loạn, lại tựa như đau khổ, tất cả hòa tan vào nhau làm căng phồng cánh buồm sinh mệnh của cô…

Thư Mạn thật sự thích piano là sau khi thấy Lâm Nhiên biểu diễn.

Lúc đó, cô mới biết Lâm Nhiên là một nghệ sĩ piano gốc Hoa tiếng danh lẫy lừng, nổi tiếng ở nước ngoài. So với tài tử âm nhạc Cảnh Mặc Trí cũng không kém phần tiếng tăm vì cùng đi ra từ một trường, lại đều là Hoa kiều nên được giới báo chí phương Tây ngưỡng mộ đặt cho danh hiệu hoàn mỹ “Hoàng tử piano phương Đông”. Những chuyện này cô đều nghe từ Thư Tần, trong khi Thư Tần từ nhỏ vốn đã cao ngạo, rất ít khi sung bái người nào.” Mạn Mạn, chị muốn kết hôn cùng anh ấy!” Chị tràn ngập tự tin nói điều đó với cô. Ánh sáng thấp thoáng trong khóe mắt chị như hiện ra quyết tâm không có gì có thể ngăn cản được.

Thư Mạn chợt có một nỗi thấp thỏm không tên, cảm giác vô cùng trống trải. Ánh sáng của Thư Tần quá chói lọi, cô lại đã quen đứng sau bóng của chị mình. Tuy từ nhỏ cũng được khen là xinh đẹp, nhưng vẻ đẹp của cô chẳng khác nào hoa dại mọc ven đường, dù tươi tắn đến đâu cũng chẳng có cơ hội được đặt lên bàn. Cô sao có tư cách để tranh giành Lâm Nhiên với chị?

Ngày Lâm Nhiên biểu diễn, Thư Tần đã mất trọn ba giờ đồng hồ để trang điểm chải chuốt, Thư Mạn đơn giản với một chiếc váy trắng có phần truyền thống, cô thực chất chỉ đi làm nền cho người khác. Buổi biểu diễn rất thành công, Thư Mạn nghe đến say mê, dĩ nhiên đã bị tiếng đàn của Lâm Nhiên chuốc say. Đúng vậy, cô không thể nghe ra bất cứ nguyên tắc hay cứ thuật chơi đàn nào, chỉ cảm thấy cả sân khấu như đang đổ mưa, còn cô đang nhảy múa theo tiếng nhạc trong cơn mưa ấy, cả tâm hồn cô cũng đang bay bổng hòa cùng với tiếng đàn. Cô lạc bước trong biển nhạc huyền ảo, tìm mãi không ra lối trở lại chính mình. Lúc đó, cô mơ hồ đoán định được rằng, cuộc đời mình từ nay sẽ không giống trước…

Điều đặc biệt là Lâm Nhiên còn mời được Cảnh Mặc Trì đến biểu diễn cùng anh. Họ cùng được đào tạo trong một môi trường nghệ thuật, cũng là bạn thân, bản nhạc cuối cùng mà hai người diễn tấu đã khiến cả hội trường vỡ òa trong cảm xúc. Linh hồn Thư Mạn như đang thoát khỏi thể xác trần tục, cô hoàn toàn quên bản thân đang ở chốn nào. Nếu như không phải Thư Tần vỗ vỗ vào người, Thư Mạn chắc còn không biết đến dòng nước mắt đã tuôn trào, thấm ướt khuôn mặt tự bao giờ.

Sau buổi biểu diễn là tiệc chúc mừng, Thư Mạn thẫn thờ trốn ở một góc, từ xa nhìn về phía Lâm Nhiên, cô thấy anh như vầng trăng sáng treo giữa bầu trời sao, bất giác lại cảm thấy trong lòng đau nhói. Lâm Nhiên đã thay đổi chiếc áo đuôi tôm đứng bên Cảnh Mặc Trì, anh chàng cũng không kém phần phong độ. Họ cùng nói cười rôm rả, mặt mày rạng rỡ. Thư Tần mặc chiếc váy xòe màu hồng hở vai, nụ cười đầy quyến rũ, cử chỉ rất nhã nhặn, từ đầu đến cuối buổi cô đều không rời Lâm Nhiên nửa bước. Thư Mạn nhìn Thư Tần trong lòng lại thấy hoang mang, cô chợt hiểu nguyên nhân khiến tim mình đau nhói.

Lâm Nhiên thấy Thư Mạn đứng một góc liền kéo cô sang đó giới thiệu với Cảnh Mặc Trì: “Đây chính là Thư Mạn, em gái của Thư Khang, người mà tôi đã kể rất nhiều cho anh nghe, cô ấy rất có khiếu cảm thụ nhạc.”

“À…” Cảnh Mặc Trì cố ý kéo dài giọng, nhìn Thư Mạn một hồi rồi quay sang trêu Thư Tần: “Anh nói rồi mà, thằng quỷ này đúng là có số tốt, lại có đến hai em gái xinh đẹp thế này ở bên, trong khi người anh em này ngày ngày vẫn độc thân, có phải cậu nên suy nghĩ một chút không?”

Thư Tần hiển nhiên cũng rất thân quen với Cảnh Mặc Trì, cười nói: “Mạn Mạn còn đang là vị trẻ thành niên đấy, anh bỏ ý nghĩ đấy đi.”

Lân Nhiên tiếp lời: “Anh có Diệp Sa rồi mà, còn mới cưới nữa, đừng có đứng núi này trông núi nọ nhé.”

“Thì cứ nói trước thế.” Cảnh Mặc Trì cầm ly rượu vang đứng bên cạnh Lâm Nhiên, vóc người cao gầy, hai người đứng bên cạnh nhau đúng là người tám lạng kẻ nửa cân, “Tôi không mấy tự tin với bản thân, từ nhỏ lớn lên cùng nhau, còn phải chung sống cả đời, nghĩ thôi cũng thấy không cam lòng.”

Thư Tần nghiêm mặt nói: “Vậy tại sao anh lại lấy chị ấy, hay là say rượu làm bừa, gạo nấu thành cơm rồi nên bất đắc dĩ phải lấy?”

“Cái gì mà gạo, tôi với cô ấy mười mấy tuổi đã thành cơm rồi.”

“Hả? ...”

Mọi người cùng cười một trận giòn giã, Cảnh Mặc Trì cũng không nhịn nổi cười vì câu nói vui của mình.

Thư Mạn lúc đó lặng lẽ nhìn mọi người nói cười, không nói xen vào lời nào, cô cảm thấy mình thật tẻ nhạt, có lẽ vốn không có phần nào của cô.

Nhưng mấy năm sau, khi cô gặp Cảnh Mặc Trì ở Pari, anh lại có lời nhận xét trái ngược với điều cô đã nghĩ. Cảnh Mặc Trì nói người xinh đẹp thoát tục nhất tối đó chính là Thư Mạn, anh nhìn vào khuôn mặt cô và nghĩ: quá thuần khiết, anh chưa từng nhìn thấy cô gái nào có khuôn mặt như vậy, đôi mắt trong sáng, đứng lặng yên bên ánh đèn, so với một người lúc nào nổi bật như Thư Tần, chẳng khác nào một bông cúc tắm mình trong sương.

Mấy ngày sau, Lâm Nhiên đến làm khách nhà họ Thư, là vợ chồng Thư Bá Tiêu đáp mời nhà họ. Thư Tần không tập đàn mà dạo phố mua sắm, làm tóc, mua quần áo, mải mê quên mọi thứ trên đời. Thư Mạn biết cô có chỉn chu thế nào cũng không thể bằng chị nên quyết định không làm gì, một mình ngồi trước piano tự mình tiêu khiển. Đây là lần đầu tiên cô chủ động ngồi vào đàn, lần đầu tiên thử dành toàn bộ tâm trí vào việc chơi đàn. Cô đã rất ngạc nhiên khi phát hiện, thì ra khi tập trung chơi một bản nhạc cùng piano cũng có thể thu hút như vậy.

Nốt nhạc cuối cùng vừa dứt, Lâm Nhiên cũng đã đứng đó tự lúc nào, anh mỉm cười, vỗ tay khen cô. Anh khoác chiếc vest kẻ sọc trắng màu gạo, chiếc quần màu trắng phau, trông anh chẳng khác nào một pho tượng ngọc thuần khiết, nhưng ánh mắt anh lại như vì sao xa xăm trên bầu trời đen tối, ở đó là ánh sáng ảm đạm chất chứa nỗi u sầu.

Thư Mạn bối rối không dám nhìn thẳng vào mắt anh. Chuyện tình cảm nam nữ đúng là không thể nói rõ, cho dù lúc bắt đầu hay kết thúc, nếu không gặp đúng người thì bản thân cũng không chắc chắn đó là người mà ta cần, nhưng cuối cùng cũng đã gặp nhau, dù chỉ trong khoảnh khắc hay là mãi mãi, dường như phía trước có xa vời vợi cũng sẽ không bao giờ hối hận.

Lâm Nhiên mỉm cười đứng trước mặt cô, khắp người anh toát ra vẻ trầm lắng như mặt nước hồ mùa thu không chút gợn. Trong lòng anh đang chứa đựng nỗi niềm gì, ngoài anh ra có lẽ không ai có thể hiểu.

Anh chỉ từng nói với Cảnh Mặc Trì, trong khoảnh khắc nghe tiếng đàn của Thư Mạn, anh biết cô chính là người mà anh vẫn chờ. Thì ra cô ấy ở đây. Dường như không chỉ vì tiếng đàn của cô, cũng không phải vì ánh mắt mê đắm hay tiếng cười trong trẻo của cô, mà vì cô chính là cô, không phải ai khác.

Khoảng cách gần ngay trước mắt nhưng lại xa vời ấy, anh lại phải dùng hết một đời.

Lâm Nhiên vô cùng tán thưởng bài diễn tấu của Thư Mạn, anh cũng không ngần ngại nói với vợ chồng Thư Bá Tiêu: “Thưa hai bác, nghệ sĩ thật sự của nhà ta là Thư Mạn, nhưng nhà ta lại không hề phát hiện ra, cháu rất ngạc nhiên vì điều đó! Lần trước ở nhà cháu, khi nghe Thư Mạn kéo nhị cháu đã biết, khả năng cảm thụ và lĩnh hội âm nhạc của cô ấy không ai bì kịp, cô ấy có tư cách trở thành một nghệ sĩ giỏi hơn bất cứ người nào, thậm chí cô ấy còn hơn cả cháu…”

“Nó làm sao mà được như cháu nói. Tần Tần còn đánh đàn hay hơn nó nhiều!” Tần Hương Lan bên cạnh vội tiếp lời.

Lâm Nhiên liếc nhìn Thư Tần, vẻ mặt rất nghiêm túc, không hề giống như đang đùa: “Nếu để cháu nói thật, Thư Tần đánh đàn có phần giống biểu diễn nhiều hơn, nhưng Mạn Mạn thì khác, cô ấy dùng trái tim của mình để chơi. Có lẽ kĩ thuật cơ bản của cô ấy không được tốt, nhưng âm nhạc không phải là thứ dựa vào kĩ thuật để làm xúc động lòng người. Âm nhạc là thứ mà trước khi làm người nghe thổn thức thì phải bắt buộc người nghệ sĩ phải hòa tâm hồn của mình vào đó trước. Nghe Mạn Mạn đàn, cháu cảm nhận được tâm hồn của cô ấy đang nhảy múa trên phím đàn…”

Hương Lan lúc đó ngượng chín mặt.

Thư Tần cũng rất bất ngờ, đây là lần đầu tiên có người phê bình một cách gay gắt khả năng của cô. Từ nhỏ đến lớn, cô luôn nhận được những lời khen tặng, hiển nhiên lúc này lòng cô không thể thích ứng được, sắc mặt tái nhợt, mắt rơm rớm lệ. Thế nhưng Lâm Nhiên vẫn chưa chịu thôi, anh đi tới trước cô, nghiêm sắc mặt: “Thư Tần, có thể em có cơ bản tốt, có thể em cũng đã từng có khả năng, nhưng đáng tiếc, khả năng ấy của em đã bị hao mòn đi bởi những bài tập luyện máy móc, em quá chú trọng vào biểu diễn mà lại quên đi sự chuyên tâm cần thiết nhất khi diễn tấu. Anh khuyên em hãy bỏ đi, âm nhạc là thứ có tâm hồn, em đã không có được tâm hồn ấy, với trí tuệ của em, đi theo những lĩnh vực nào chắc chắc cũng sẽ thành công.”

Nước mắt của Thư Tần bắt đầu lã chã rơi.

“Làm sao có thể được? Nửa năm sau nó còn đi nước ngoài học chuyên sâu nữa.” Hương Lan lo lắng nói.

Lâm Nhiên nhún vai, giọng quả quyết: “Cháu thấy vô ích thôi, rất nhiều chuyện không thể nào miễn cưỡng được, đặc biệt là âm nhạc, nó thật sự rất cần năng khiếu và tâm tư dành cho nó…” Nói rồi anh lại nhìn về phía Thư Mạn, tiếp tục nói: “Vừa hay sắp tới ở Nhật Bản tổ chức một cuộc thi piano thế giới, anh nghĩ Mạn Mạn có thể tham gia, chỉ cần tăng cường luyện tập, phát huy được thế mạnh của em thì nhất định sẽ gây được tiếng vang lớn.”

Mọi người trong nhà đưa mắt nhìn nhau.

Thư Bá Tiêu dường như chấp nhận ý kiến của Lâm Nhiên: “Có điều là nó cần một thầy giáo chỉ dẫn, học hành một cách nghiêm túc.” Nói rồi ông thuận nước đẩy thuyền, nhìn Lâm Nhiên: “Hay là, Lâm Nhiên, cháu có thể giúp Thư Mạn không?”

Lâm Nhiên không chút do dự, vui vẻ nhận lời: “Không vấn đề gì, cháu rất vui được dạy Mạn Mạn.” Nói rồi anh quay sang cô hỏi,” Mạn Mạn, anh có thể làm thầy của em không?”

Thư Mạn sững người, như không dám tin vào sự thật trước mắt. Lúc này, cô phát hiện Thư Tần không còn ở trong phòng, trên tầng có tiếng đóng cửa thật khẽ. Thư Tần quả được giáo dục rất tốt, vừa chịu một đả kích lớn như vậy mà ngay đến việc đóng cửa cũng rất cẩn thận. Cả nhà đều rất lo cho cô, một người từ nhỏ chưa từng gặp phải trắc trở nào, liệu có thể chịu đựng được đả kích khi bất ngờ bị phủ nhận tài năng như vậy không? Trong nhà ai nấy đều mặc nhiên cho rằng sau này cô sẽ là một nghệ sĩ piano lớn, bản thân cô cũng cho là vậy, sự cố gắng mười mấy năm bỗng chốc bị gạt đi toàn bộ, cô sao có thể đối mặt với cuộc sống sau này?

Nhưng có vẻ, lo lắng của mọi người là dư thừa, sau khi một mình trong phòng hai ngày, Thư Tần đã chịu ra ngoài, vẻ mặt nhẹ tênh như chưa hề có chuyện gì xảy ra. Thậm chí cô còn cười, an ủi lại bố mẹ: “Bố mẹ đừng lo, con không sao, chỉ là không chơi đàn nữa mà thôi, không có gì to tát cả. Hơn nữa, nói thật con cũng không thích chơi piano như bố mẹ nghĩ, sở dĩ con chơi cho đến hiện tại là vì khi con chơi đàn có thể được nhiều lời khen ngợi, con quá ham hư danh, bị đắm chìm trong những lời khen như vậy... Vì vậy Lâm Nhiên nói đúng, đúng là con đang biểu diễn chứ không phải là thực tâm diễn tấu, bản thân con nhiều khi cũng rất đau khổ trong cuộc sống giả tạo như vậy…” Thư Tần nói ra những lời này hiển nhiên đã hạ quyết tâm, cô mỉm cười nói ra quyết định cuối cùng của mình,” Bố, mẹ, con quyết định không chơi đàn nữa, làm một nghệ sĩ giỏi không phải là ước mơ đích thực của con. Ước mơ này có lẽ nên để Mạn Mạn thực hiện sẽ thích hợp hơn con. Con muốn đi học thiết kế thời trang, đây mới là thứ mà con thích, lúc nhỏ con đã may quần áo cho búp bê, mẹ, mẹ nhớ chứ?”

Nói rồi cô lại nhìn em gái, tha thiết nói: “Lần đầu tiên nghe Mạn Mạn chơi đàn, con cũng rất bất ngờ. Tiếng đàn của em thể hiện được những thứ mà con không thể nào làm được, khả năng của con không bằng Mạn Mạn. Con biết, em gái của con sớm muộn cũng sẽ vượt qua mình, hoặc có thể là, em vẫn luôn đứng trên con, là con không thể vượt qua em…”

“Chị, chị đang nói gì vậy?” Thư Mạn nghe những lời này trong lòng cảm thấy rất buồn bã.

“Mạn Mạn, tài năng của em bản thân em không thể nhìn thấy! Nhưng chị có thể nhìn thấy, bây giờ chị trao lý tưởng này cho em, hy vọng em có thể thực hiện. Không phải vì chị, cũng không phải vì bố mẹ, là vì ở chính bản thân em. Lý tưởng cũng giống như tình yêu, nhất định phải là thứ mình muốn mới được, em có hiểu không?”

“Nhưng mà, bố con đã xin cho con đi nước ngoài du học”

“Để Mạn Mạn đi đi mẹ, em ấy có tư cách hơn con, con không phải vì bản thân là chị mới nhường cơ hội này, mà vì con cảm thấy, Mạn Mạn có nhiều yếu tố để thành công. Thành công của Mạn Mạn cũng chính là thành công của con, cũng là thành công của nhà chúng ta!”

Thư Bá Tiêu lộ vẻ vui mừng, giơ tay vuốt tóc Thư Tần: “Con gái, cuối cùng con cũng đã lớn rồi, con sẽ không hối hận chứ?”

“Con đã quyết định rồi, thưa bố!”

“Vậy được rồi, để Mạn Mạn đi.”

Bạn có thể dùng phím mũi tên hoặc WASD để lùi/sang chương.