Tư Thái Cung Phi

Chương 189: Chương 189: Ngoại Truyện 1




Edit: Huệ Hoàng hậu.

Beta: Mai Thái phi.

Trầm Đô, hành cung.

Lửa, nơi nơi đều là lửa. Ngày đó cả bầu trời đều bị nhuộm thành một màu đỏ thẫm mỹ lệ. Cảnh sắc đẹp đẽ như vậy, có lẽ cả đời người chỉ có thể nhìn thấy vào lúc này thôi.

Những cung nhân nơi đó chỉ cần còn sống thì đều phóng hỏa hết.

Chết? Đúng vậy, rất thống khổ, nhưng có người làm bạn cùng mà. Có kẻ địch, có bằng hữu, còn có chủ nhân ở bên cạnh. Cho nên, không hề đau chút nào, không một chút nào. Bởi vì tất cả bọn họ đều đã sớm tuyên thệ với người ở trong đại điện kia, bất luận sinh tử ra sao, đều nguyện sẽ trung thành đến cùng.

Tuy không thể bảo hộ nương nương không bị thương tổn, nhưng mà bọn họ cũng đã dùng hết tất cả những gì mình có. Ngay cả tính mạng cũng không màng, làm sao có thể không tính là trung thành cơ chứ.

Hẳn bọn họ là một đám nô tài hạnh phúc nhất đúng không? Bởi vì từ đầu đến cuối, chủ nhân của bọn họ đều không vứt bỏ bọn họ, cho nên cùng nhau chết đi chính là điều hạnh phúc nhất lúc này. Đây cũng là vọng tưởng xa xỉ nhất trong nội tâm bọn họ thời khắc này.

Nương nương, trên đường xuống hoàng tuyền, xin người hãy đợi một chút, chúng nô tài sẽ nhanh chóng tới hầu hạ người.

Nhóm thi thể cuối cùng đều sẽ hóa thành tro bụi, nhưng bọn họ đều mang theo tươi cười. Mà những kẻ địch kia thì mang theo tuyệt vọng và kêu gào thảm thiết.

Kham Bố vương và nhi tử Phục Khiên dưới sự bảo vệ của thân binh và tướng lĩnh rốt cuộc cũng chạy ra khỏi hành cung, xem như nhặt về được cái mạng. Tất cả mọi người đều kinh hoảng không thôi, bởi vì đây chính là giành lại mạng sống từ tay tử thần.

Kham Bố vương thở hổn hển, trên mặt toàn là tro đen, phong độ cùng với ưu nhã đều đã biến mất, không còn một chút gì. Hắn từ từ ngẩng đầu lên nhìn xung quanh, giọng nói nghẹn ngào, có chút khó khăn: “Có bao nhiêu người chạy ra?”

Ánh mắt Phục Khiên mông lung, lắc lắc đầu nói: “Sau khi phóng hỏa, cửa cung liền đóng lại, người chạy ra được chỉ có vài tốp. Người Hồ Nhung chúng ta chiếm đa số, cũng không đến một ngàn người. Phía Bắc Mông chắc cũng chỉ mấy trăm người.”

Đôi môi Kham Bố run rẩy, giọng nói đứt quãng: “Đại Khâm đâu? Hình như bổn vương không thấy hắn.”

Tướng lĩnh Bắc Mông ở kế bên cũng kinh hoảng tìm kiếm khắp nơi. Đại Khâm là người thừa kế Bắc Mông, hơn nữa hai huynh trưởng của hắn đều hết sức bình thường. Nếu như Đại Khâm xảy ra chuyện ở đây, thì Bắc Mông thật sự sẽ phát điên mất.

Phục Khiên bị sặc ho khan vài tiếng, sau đó mở miệng nói: “Người của chúng ta không nhìn thấy Vương tử Đại Khâm, có thể là chạy ra được, cũng có thể không. Ai mà biết.”

Đây là sự khác biệt giữa Bắc Mông và Hồ Nhung. Hồ Nhung là chế độ xã hội nô lệ, tuy so với xã hội phong kiến thì lạc hậu hơn, nhưng với chế độ xã hội này, địa vị của Vương là tối cao. Khi gặp nguy hiểm, bản năng của bọn thuộc hạ gần như là bảo hộ Vương và Vương tử đầu tiên, cho nên Kham Bố và Phục Khiên xem như là bình an, không có việc gì.

Còn Bắc Mông là dân tộc du mục. Sự phân cấp trong giai cấp xã hội tương đối rời rạc, không rõ ràng. Việc Đại Hãn và một tên dũng sĩ nào đó giao đấu với nhau trên thảo nguyên là chuyện bình thường. Vậy nên tất nhiên khi gặp nguy hiểm, sự bảo hộ Vương tử của bọn họ không phải là bản năng. Trong đại điện, người bên cạnh Đại Khâm gần như tán loạn, tan tác như rắn mất đầu, chỉ còn vài người ở lại bảo hộ.

Cho nên rốt cuộc hiện tại Đại Khâm như thế nào, thật đúng là không dám kết luận.

Kham Bố từ từ nhắm mắt lại. Hai mươi tuổi hắn đã kế thừa Vương vị. Trong mười ba năm chấn hưng Hồ Nhung, cuối cùng bây giờ hắn mới hiểu thế nào là bất lực và tuyệt vọng.

Không phải do tổn thất nặng nề về quân binh, không phải do bản thân suýt chút nữa là mất mạng, cũng không phải do không rõ sống chết của Vương tử Đại Khâm, mà là tất cả những gì nữ nhân kia đã làm thể hiện một điều vô cùng sâu sắc.

“Đi thôi, dẫn theo tất cả binh lính còn lại rời đi hết. Trong thành Trầm Đô còn một vạn binh lính của chúng ta, tập hợp tất cả lại rồi xuất phát.” Kham Bố vương nghẹn ngào, cả người giống như già đi vài tuổi.

Phục Khiên tuổi trẻ khí thịnh. Tuy vừa mới trải qua sinh tử, nhưng sự bốc đồng và nhuệ khí không biết trời cao đất dày vẫn không thuyên giảm chút nào. Hắn phản bác: “Phụ vương! Chẳng lẽ chúng ta cứ vậy mà rời đi sao? Chúng ta đã chịu tổn thất lớn như thế, cho nên phải càn quét cướp bóc trong thành Trầm Đô một phen. Viện quân Đại Lương chắc cũng phải mấy ngày nữa mới đến, chúng ta không thể đi uổng phí chuyến này được, tổn thất nhiều dũng sĩ như thế mà!”

Kham Bố vương mở to mắt. Đồng tử của hắn pha một chút màu xanh, ánh nắng chiếu vào khiến nó càng thêm trong trẻo. Nhưng đôi mắt xinh đẹp kia lại tràn ngập sự thất vọng: “Kẻ địch của chúng ta không phải là Đại Lương nữa, cho nên, không cần cướp bóc.”

Phục Khiên không rõ mà hỏi: “Phụ vương, người đang nói gì vậy? Kẻ địch của chúng ta không phải Đại Lương thì là ai? Đại Lương càng thêm cường thịnh, nếu không liên thủ với Bắc Mông, thì căn bản chúng ta không tránh được vận mệnh bị Đại Lương thâu tóm.”

Kham Bố vương cười chua xót, thanh âm khàn khàn: “Bởi vì, không nhìn thấy hi vọng.”

Phục Khiên quật cường hỏi: “Hi vọng gì?”

Kham Bố vương nhìn cung điện vẫn đang hừng hực cháy, chua xót nói: “Hi vọng chiến thắng Đại Lương, hoàn toàn không thấy được. Dân chúng giàu có, quốc lực cường thịnh, binh hùng tướng mạnh, thật ra tất cả điều đó đều không phải là vấn đề. Nhưng thứ mà Đại Lương có được không chỉ là những cái đó, còn có điều mà nữ nhân kia đã thể hiện cho chúng ta xem.”

“Đó chính là tinh thần...”

Phục Khiên trầm mặc, từ từ hạ mí mắt xuống, không biết nên nói gì.

Kham Bố vương cười cười, mang theo vài phần trào phúng lại bi thương: “Ấn tượng mà Đại Lương thể hiện cho người ta thấy, ngoại trừ giàu có ra, thì chắc đó là mềm yếu. Ít nhất trong mắt những “man di” như chúng ta, thì những lễ nghi và tín niệm vô dụng kia chính là mềm yếu. Trừ Đại Lương ra, còn ai quý trọng sinh mệnh như thế nữa đây? Trong thế giới khổ cực này, vì sinh tồn mà chúng ta phải không ngừng phấn đấu, cho nên cái chết cũng là một phương thức để tiếp tục tồn tại. Trên chiến trường thì dũng mãnh không sợ chết, dùng vài mạng người để giành lấy thắng lợi, chúng ta coi đó là lẽ thường tình. Nhưng Đại Lương thì không như vậy, mệnh của bọn họ rất đáng giá, rất đáng giá...”

Vành mắt Phục Khiên đỏ lên, hắn cắn răng nói: “Cho nên con mới căm thù Đại Lương! Con muốn cho bọn họ cũng phải nhấm nháp thống khổ và tuyệt vọng như chúng ta! Ở trong một đất nước tràn ngập hi vọng và hạnh phúc như thế, làm sao bọn họ có thể hiểu được!”

Kham Bố vương quay đầu nhìn Phục Khiên, nhẹ giọng nói: “Con của ta, đừng hành động theo cảm tính. Năm đó phụ vương cũng khí phách hăng hái như thế, nhưng mà, cho dù đã nỗ lực rất nhiều, nhưng dường như lại càng cách xa Đại Lương. Nữ nhân kia, ngươi thấy không? Ngươi nhìn thấy gì từ trên người nàng ấy?”

Kham Bố vương tự hỏi tự đáp, nở nụ cười thật chua xót lại bi thương: “Là sự kiêu ngạo, thà làm ngọc vỡ còn hơn ngói lành, là tinh thần kiêu ngạo đến chết của Đại Lương.”

“Đây chính là chỗ đáng sợ nhất. Nàng ấy không phải vì giết chết chúng ta mà phóng hỏa, mà nàng ấy là vì kiêu ngạo đến mức khinh thường chạy trốn, nên mới phóng hỏa giết chết chúng ta. Phục Khiên, chúng ta thua rồi. Ta không thấy được một chút hi vọng nào, không nhìn thấy hi vọng chiến thắng quốc gia này.”

“Ta đã từng rất hận loại kiêu ngạo này, bởi vì nó cao cao tại thượng, kèm theo ánh mắt thương hại nhìn chúng sinh như con kiến. Nhưng mà Phục Khiên, chúng ta không có sự kiêu ngạo như thế, chúng ta cũng không cách gì bồi dưỡng ra loại tinh thần đó. Ta chẳng thể nhìn ra được con đường phía trước, cũng không thấy ánh sáng vinh quang.”

Kham Bố vương cắn chặt răng đến mức nhói đau, nhưng có vẻ như hắn không cảm giác được gì, đôi mắt màu lam nhạt kia tràn ngập bi thương: “Đi thôi, chúng ta về nhà.”

Các tướng lĩnh Hồ Nhung trầm mặc vây quanh bốn phía Kham Bố vương, áp lực tuyệt vọng hiện lên trong lòng mỗi người.

Nữ nhân kia, nàng ấy làm người ta thống hận như thế, rồi lại khiến cho người ta phải tôn kính đến vậy.

Sự vĩ đại không cần thứ ngôn ngữ hời hợt nào ca tụng, trong lòng mọi người tự nhiên sẽ lập bia khắc chữ.

Hai vạn kỵ binh Hồ Nhung chỉ còn lại tầm một vạn một ngàn người. Kham Bố vương dẫn theo số kỵ binh đó nhanh chóng rút lui khỏi Trầm Đô. Nguyên nhân rút lui có rất nhiều, trong đó cũng có nhân tố viện quân. Đạo lý rất đơn giản, tuy viện quân cần mấy ngày nữa mới tới được Trầm Đô, nhưng quân coi giữ biên cương thì có thể điều động rất nhanh, ở nơi đó ôm cây đợi thỏ.

Kham Bố cần phải trở lại Hồ Nhung trước khi quân lính ở biên cảnh tập kết.

Cũng may, bởi vì hành động lần này nên biên cương Hồ Nhung đã có chuẩn bị bố trí sẵn. Vì vậy, bọn họ cũng không quá lo lắng đột nhiên bị tập kích hay chiến tranh.

Mà Bắc Mông thì thảm hơn nhiều so với Hồ Nhung. Bốn vạn kỵ binh Bắc Mông, trừ hai vạn ở trong thành ra, thì hai vạn quân trong hành cung gần như bị tiêu diệt hết. Mà người lãnh đạo đội quân này - Đại Khâm cũng không tìm thấy. Dưới tình huống như vậy, mọi người biết rằng khả năng hắn còn sống chẳng được bao nhiêu.

Hành cung không chỉ bị lửa lớn thiêu cháy, mà huỳnh lân ở bên trong còn là chất kịch độc, dầu hỏa cũng không phải là thứ tốt gì. Khói đen kia bốc lên, cho dù không bị lửa đốt chết, phỏng chừng cũng sẽ bị sặc chết hoặc là độc chết.

Hơn nữa thế lửa lớn như vậy, dưỡng khí trong không khí gần như bị thiêu đốt chẳng còn gì, thậm chí chỉ cần tới gần hành cung thì đã cảm thấy hô hấp khó khăn.

Cho nên, chỉ cần là người mà đến bây giờ còn chưa chạy ra khỏi hành cung, thì cơ bản có thể xác nhận là chết rồi.

Hơn hai vạn kỵ binh còn lại của Bắc Mông như rắn mất đầu, cướp bóc làm loạn một hồi trong thành Trầm Đô, còn bị bá tánh phản kháng giết chết không ít. Kết quả đội quân chính thức rời khỏi Trầm Đô chẳng còn đủ hai vạn.

Bởi vì tìm Đại Khâm, rồi còn ở Trầm Đô cướp bóc tiêu phí thời gian, cho nên khi bọn họ chạy về Bắc Mông thì không có vận khí tốt giống như Hồ Nhung.

Biên cảnh của Bắc Mông và Đại Lương vốn là chiến hỏa hừng hực, khi bọn họ tới Đại Lương cũng là bí mật thông qua biên cảnh Hồ Nhung. Hiện giờ bởi vì một loạt sự kiện này, hơn nữa bộ dáng Hồ Nhung ngo ngoe rục rịch cũng hết sức khả nghi, cho nên quân đội đóng ở biên cảnh Hồ Nhung - Đại Lương cũng tăng số lượng lên. Vì thế, kỵ binh Bắc Mông muốn về nhà, tất nhiên chỉ có thể đánh bừa mà thôi.

Cuối cùng, số người thật sự có thể trở về Bắc Mông, thậm chí không đủ năm ngàn.

Đó đương nhiên là trận chiến đấu vô cùng tàn khốc.

Thậm chí quân lính trấn giữ biên cảnh Đại Lương cũng vì thế mà trả giá hai vạn mạng người, nhưng bọn hắn cần làm như vậy. Tuy tin tức tắc nghẽn khiến cho bọn hắn không biết cụ thể đã xảy ra chuyện gì, nhưng một đội quân đã thâm nhập vào trong Đại Lương rồi. Hiện tại tàn binh còn lại đã trở ra, vậy thì có nghĩa là: tất nhiên đã xảy ra chiến đấu.

Chiến đấu thì sẽ có người chết, hơn nữa còn là trận chiến không hề phòng bị. Bọn hắn không biết có bao nhiêu người bởi vậy mà chết, cũng không biết có một nhân vật lớn cũng táng mệnh vào đó.

Nhưng bọn hắn biết chắc chắn rằng quân binh trấn giữ biên cảnh sẽ không tránh khỏi bị trừng phạt. Trên cơ bản là sẽ rơi đầu, hiện giờ liều mạng như thế cũng chỉ là cầu một ân huệ để không liên lụy đến người nhà mà thôi.

Chương 190: Tin Tức

Edit: Huệ Hoàng hậu

Beta: Mai Thái phi.

Kiến Chương cung.

Hoàng Thái tử Trần Nghiễm trầm mặc quỳ gối ngoài cửa Kiến Chương cung. Hôm nay hắn vừa mới chạy về thượng kinh, việc đầu tiên sau khi trở về chính là xin cầu kiến nam nhân tôn quý nhất đất nước này — phụ hoàng của hắn.

Khiến người ta đau lòng nhưng lại rất theo lẽ thường đó là hắn chẳng được triệu kiến, cho nên hắn chỉ có thể quỳ gối ngoài cửa Kiến Chương cung.

Thật ra chuyện Du Lâm thất thủ đúng là không trách được Thái tử. Tuy so Du Lâm với Trầm Đô thì binh nhiều tướng mạnh, nhưng dù sao nó vẫn là một thành trấn ở phía hậu phương, hoặc có thể nói nó là trạm trung chuyển lương thảo từ vùng trong ra biên cảnh.

Khi có lương thảo, tất nhiên Du Lâm được phòng thủ kiên cố, ít nhất cũng có sáu bảy vạn nhân mã. Nhưng Bắc Mông và Hồ Nhung lại không ngốc, bọn họ tranh thủ lúc đại quân hộ tống lương thảo tới biên cương, mới ngang nhiên tấn công thành.

Khi đó binh mã bên trong thành cũng giống như Trầm Đô, chỉ gần hai vạn người mà thôi. Tuy bọn họ đều là lão binh với kinh nghiệm chiến trận, sức chiến đấu mạnh mẽ, hơn nữa thành trì Du Lâm cũng tương đối chắc chắn, quân bị toàn diện, nhưng những thứ gọi là ưu thế kia ở trước mặt sáu vạn đại quân của kẻ địch, thật sự rất khó mà có sức chống cự.

Luận khả năng tác chiến của từng binh sĩ, kỵ binh của người ta có thể một địch ba.

Cho nên Thái tử chạy trốn, hay nói là rút lui, thật sự là một lựa chọn rất bình thường. Nếu thật sự tử thủ thành trì, đó mới là hủ nho, là tên ngốc.

Huống chi, dù ngươi có tiêu diệt sáu vạn kỵ binh của đối phương, nhưng chỉ cần đối phương diệt được một Hoàng Thái tử như ngươi, đó đã là đại thắng!

Loại tình huống này, không chạy là não tàn.

Nhưng Thái tử cùng với mưu sĩ và tướng lĩnh bên cạnh Thái tử đều không nghĩ đến: mục tiêu của đối phương cũng không phải Du Lâm, mà là nơi phía sau Du Lâm — Trầm Đô.

Không ai nghĩ đến, Bắc Mông và Hồ Nhung sẽ lấy tòa thành trì gần như không có bất kì tác dụng chiến lược kia làm mục tiêu, hơn nữa không màng sinh tử mà tấn công vào đó.

Khi Thái tử rút khỏi Du Lâm, tâm tình vẫn rất ổn định, tuy rằng có chút ủ rũ nhưng đây thật sự cũng không phải tội lớn gì.

Bên cạnh hắn cũng chỉ có gần bốn ngàn người hộ tống mà thôi. Trên đường hồi kinh, khi Thái tử nghe tin tức về Trầm Đô, hắn lập tức choáng váng.

Hắn biết phụ hoàng ở Trầm Đô tránh nóng, cho nên ngay lúc đó tâm tình thật sự là khó có thể miêu tả được, có điều tất nhiên chủ yếu là cảm giác sợ hãi.

Sau đó hắn lại biết được tin phụ hoàng hắn đã rời khỏi Trầm Đô trước, cho nên cũng không có gì đáng lo. Lúc ấy, Thái tử thở dài nhẹ nhõm một hơi.

Cho nên hắn ra roi thúc ngựa chạy về thượng kinh. Việc ở Du Lâm, tuy nhìn vào lúc đó thì cách làm của hắn không sai, nhưng hậu quả vẫn rất nghiêm trọng. Hơn nữa không cẩn thận còn có khả năng bị phụ hoàng nghi kỵ, cho nên ít nhất hắn phải thỉnh tội vì bản thân thất trách.

Đáng tiếc, sau khi hắn phong trần mệt mỏi trở lại thượng kinh thì nhận được tin tức đầy đủ. Hắn liền ngây ngốc.

Trầm Đô là chỉ có Hoàng đế và Hoa Chi công chúa trở lại trước, mà Kỳ Quý phi và Cửu Hoàng tử, Thập Hoàng tử vẫn chưa trở về.

Thái tử bất giác rùng mình một cái, sau đó liền quỳ gối trước cửa Kiến Chương cung, hi vọng có thể gặp phụ hoàng một lần, giáp mặt trần tình.

Ít nhất, hắn cần một cơ hội để giải thích, không thể để Hoàng đế hiện tại đang bùng nổ lại càng sinh thêm nhiều phẫn hận và nghi kỵ vô căn cứ đối với hắn.

Lúc này, thật sự Hoàng đế và Thái tử đều đang chờ đợi, chờ đợi tin tức phương xa truyền về.

Đầu gối Thái tử từ đau đớn trở nên chết lặng rồi lại trở về đau đớn. Nô tài ở phía sau vừa lo lắng vừa sợ hãi, hoàn toàn không biết nên làm gì.

Mà lúc này, rõ ràng có tiếng bước chân truyền tới.

Đó rõ ràng là bước chân của người lính, trên người nhất định còn mặc áo giáp. Những tấm sắt san sát trên áo giáp ma sát vào nhau khi bước đi tạo thành âm thanh, Thái tử không còn xa lạ gì với nó nữa.

Bước chân người đó thực ổn trọng, giống như là từng bước một in dấu chân xuống đất. Thái tử có thể cho cảm giác được, đó nhất định là một hãn tướng có thân hình cao lớn, tráng kiện như trâu.

“Thần, Hộ quân Dương Liêm cầu kiến bệ hạ.” Nam tử quả nhiên vừa cao to vừa tráng kiện, chỉ là hốc mắt sâu hoắm. Bóng dáng thì mảnh dẻ, thân hình cường tráng kia gần như chỉ còn lại cái khung xương to lớn, cả người có vẻ hơi không đồng nhất. Nhưng điều này cũng không hề ảnh hưởng đến khí thế của người nam nhân này. Mặc cho ai nhìn thấy ánh mắt người nam nhân này, ước chừng đều sẽ cảm nhận được sự đau đớn.

Tiểu thái giám ở cửa cung nghe vậy, thân mình run lên, lập tức mở cửa cung ra, khom người nói: “Hoàng thượng vẫn đang đợi tướng quân.”

Dương Liêm đứng dậy, tiếp tục bước từng bước vững vàng đi vào.

Thái tử từ từ ngẩng đầu lên, nhìn thân hình cao lớn của nam nhân kia. Hắn biết, sủng nhục đời sau của hắn phải nhờ vào tin tức mà người nam nhân này mang về.

Nội điện Kiến Chương cung.

Gương mặt vẫn luôn tái nhợt của Hoàng đế lộ ra sắc vàng như nến, là trạng thái cực kỳ không khỏe mạnh. Đúng thế, dưới sự dày vò như vậy, Hoàng đế đã qua tuổi năm mươi rất khó bảo trì khí lực an khang như trước.

Ngày ấy sau khi té xỉu, Thái y chẩn ra là bệnh tim.

Tuy Thái y nói bệnh tim này không giống bệnh tim bẩm sinh của Tứ Hoàng tử. Khi người ta lớn tuổi, trái tim tất nhiên sẽ xuất hiện một vài vấn đề, đặc biệt là khi quá vui, quá buồn hay quá giận thì sẽ cực kỳ hại thân.

Nhưng Hoàng đế vẫn luôn hốt hoảng, nghĩ rằng có lẽ bệnh tim của tiểu Tứ thật sự là di truyền từ hắn, chỉ là bị nghiêm trọng hơn mà thôi.

Trần Hỉ ở bên cạnh Hoàng đế khổ nhọc khuyên nhủ nhiều ngày, Hoàng đế vẫn cứ lo lắng.

Chuyện ở Trầm Đô bị Hoàng đế hạ lệnh phong tỏa. Ít nhất trước khi xác thực tin tức truyền về, hắn không hi vọng trên triều có người dị nghị.

Chuyện này dính dáng quá nhiều người, chỉ cần một khắc là bắt được hoàng thân quốc thích ba triều.

Hơn nữa Hoàng đế vô cùng lo lắng cho thân thể tiểu Tứ. Đứa nhỏ kia không thể chịu được đả kích. Nếu nó biết được tin tức thì hơn mười ngày dày vò này, căn bản là sẽ chịu không nổi!

Đúng vậy, Hoàng đế đang sợ hãi, sợ hãi người mà hắn quý trọng sẽ rời xa hắn.

Hoàng đế ép mình nghĩ theo hướng tốt. Chắc hẳn thời gian vẫn kịp, Thường nhi và hai đứa nhỏ nhất định có thể bình an trở về. Chỉ cần vận khí không quá kém, thì nhất định có thể trở về.

Có điều, cái loại dự cảm bất an vẫn quanh quẩn trong lòng, loại dự cảm này đạt tới đỉnh điểm khi Thái tử trở về.

Trực giác nói với hắn, nhất định hắn sẽ mất đi điều gì đó.

Nếu Thái tử đã trở về, như vậy Thường nhi và tiểu Cửu, tiểu Thập đâu?

Hắn không muốn để ý tới Thái tử, hắn cũng không muốn biết Thái tử đã làm những gì, hiện tại hắn chỉ muốn biết tin tức bình an.

“Thần, Dương Liêm tham kiến Hoàng thượng, Hoàng thượng vạn tuế vạn tuế vạn vạn tuế.” Giọng nói trầm thấp lại mang theo vài phần nghẹn ngào quanh quẩn ở trong đại điện trống rỗng.

Hoàng đế nhìn Dương Liêm đang quỳ gối phía dưới với cái đầu dập sâu sát mặt đất, trong lòng Hoàng đế trở nên buốt lạnh.

Nếu tất cả đều bình an, Dương Liêm sẽ không phải như bây giờ - không dám ngẩng đầu nhìn thẳng hắn.

Dương Liêm không nghe thấy Hoàng đế nói gì, chậm rãi ngẩng đầu lên, rũ mắt, giọng nói mang theo chết lặng, bi thương: “Bắc Mông và Hồ Nhung liên quân đánh bất ngờ Trầm Đô, thần phụng mệnh Kỳ Quý phi, mang theo Cửu Hoàng tử và Thập Hoàng tử rời khỏi Trầm Đô, đêm tối hành quân.”

“Dọc theo đường đi, tuy không có truy binh, nhưng Du Lâm, Trầm Đô lục tục thất thủ khiến cho dân gian chấn động, sơn phỉ nổi lên khắp nơi. Thập Hoàng tử uống thảo dược an thần nên ngủ rất sâu, ngoại trừ gầy ốm một chút cũng không có gì đáng lo ngại. Mà Cửu Hoàng tử thì đã hiểu chuyện nên bị kinh hách, đường đi thì cực kỳ nguy hiểm, tinh thần bị tổn thương nên nửa đường sinh bệnh nặng, sốt cao không lùi. Thần không thể không ngừng hành quân, tìm thầy hỏi thuốc, thật vất vả mới chuyển nguy thành an. Có điều phải nghỉ ngơi cho tốt nên trì hoãn hành trình, cho đến hôm nay mới có thể hồi kinh.”

Hoàng đế trầm mặc lắng nghe, hắn đã rõ: Cửu Hoàng tử, Thập Hoàng tử đều đã thoát khỏi nguy hiểm, bình an không có việc gì. Như vậy người vẫn luôn không xuất hiện trong miệng của Dương Liêm cũng chỉ còn lại Kỳ Quý phi — Thường nhi của hắn.

Dương Liêm gầy đến mức khá đáng sợ. Hốc mắt hãm sâu có vài phần dáng vẻ ngoại tộc, mang vài phần hơi nước, chỉ là bị làn mi rũ xuống kia che khuất. Hắn mở miệng nói: “Kỳ Quý phi không đi với thần. Nương nương nói phải đại diện cho Hoàng thượng, đại diện cho Hoàng thất mà ở lại Trầm Đô, cùng bá tánh đứng trước mặt kẻ địch bên ngoài.”

Dương Liêm hơi ngẩng đầu lên, có lẽ làm vậy thì sẽ khiến nước mắt yếu đuối không thể chảy xuống.

“Hoàng thượng, thần không cách nào ngăn cản nương nương. Một khắc đó Quý phi nương nương khiến thần không thể có chút ý muốn đối nghịch nào. Thần biết, thần không thể nào đưa nương nương đi, bởi vì, đó chính là vũ nhục nương nương.”

Hoàng đế trở nên hoảng hốt, đôi môi trắng bệch đến mức không còn một chút huyết sắc.

“Bởi vì Cửu Hoàng tử bệnh nặng trì hoãn hành trình, cho nên trên đường đi thần cũng nghe được thêm nhiều tin tức về Trầm Đô. Quý phi nương nương đốt hành cung. Nương nương, hai ngàn cung nhân trong hành cung, cùng với hai vạn tám ngàn tên kỵ binh Bắc Mông và Hồ Nhung đều chết ở trong trận cháy lớn đó.”

“Lửa lớn cháy bảy ngày bảy đêm, toàn bộ hành cung trở thành một vùng than tro. Thần ở ngoài ngàn dặm mà vẫn có thể nhìn thấy rõ được khói đen trên bầu trời. Làn khói ấy bay lên rồi lan ra, thật là đẹp.”

Vẻ mặt của Dương Liêm đờ đẫn, đôi tay lại không tự chủ được mà hơi run rẩy, ngón tay vô ý thức như muốn bắt lấy cái gì: “Chính điện cháy sạch sẽ nhất, một lượng lớn dầu hỏa và huỳnh lân đã thiêu trụi nơi đó. Trong chính điện không còn thi thể của một ai, đều đã biến thành than. Trung thừa Trầm Đô tiến đến giải quyết hậu quả chỉ có thể dựa vào một mảnh cung trang màu hạnh hoàng kia để xác nhận tro cốt của nương nương.”

“Hơn nữa đã không còn được bao nhiêu, gió to có thể mang đi bất cứ thứ gì sau trận cháy lớn.”

Dương Liên đỏ bừng hốc mắt nhìn Hoàng đế, nói thêm: “Sau khi giải quyết xong hậu quả, Trung thừa Trầm Đô tự vẫn trước hành cung, để lại di ngôn, hi vọng có thể được mai táng bên cạnh hành cung, đợi tro cốt của Quý phi nương nương phân tán đi mọi nơi.”

Đôi môi trắng bệch của Hoàng đế rốt cuộc cũng có chút màu sắc, có điều là màu xanh tím, cho thấy bệnh tật và thống khổ.

Trần Hỉ lệ rơi đầy mặt vội vàng tiến lên đỡ lấy Hoàng đế đang lung lay, sau đó thất thanh hô lên: “Truyền Thái y!”

Tay Hoàng đế nắm chặt lấy lớp vải của y phục nơi trái tim.

Thì ra, bệnh tim đau như vậy sao? Giống như tim bị móc xuống một khối, vắng vẻ, gió lạnh thổi vào, lạnh thấu xương.

Bạn có thể dùng phím mũi tên hoặc WASD để lùi/sang chương.